Hiện đại hóa nền kinh tế từ sản phẩm công nghệ 'Make in Vietnam'
Đại diện một số doanh nghiệp cho rằng cần đặt doanh nghiệp công nghệ số ở vị trí trung tâm, đồng thời áp dụng một số cơ chế đặc thù để nhóm doanh nghiệp này tăng cường tạo ra các sản phẩm công nghệ 'make in Vietnam', qua đó đẩy nhanh tốc độ số hóa nền kinh tế.
Nền kinh tế vẫn ở giai đoạn gia công, lắp ráp
Với hoạt động sản xuất, ông Nguyễn Hồng Sơn, Phó trưởng ban Kinh tế Trung ương, cho biết khu vực châu Á – Thái Bình Dương sẽ thu hút 2/3 nhà sản xuất toàn cầu, trong đó dẫn đầu thuộc về các ngành sản xuất thông minh vào năm 2025, theo dự báo của Tập đoàn Ericsson. Theo đó, 7 quốc gia gồm Úc, Indonesia, Malaysia, New Zealand, Philippines, Singapore và Thái Lan đã triển khai sản xuất những thiết bị công nghệ thông minh 5G. Việt Nam cũng được Ericsson đánh giá là một điểm đến hấp dẫn với doanh thu từ công nghiệp 5G ước đạt 1,54 tỉ đô la Mỹ vào năm 2030.
Còn báo cáo công nghiệp hóa trong kỷ nguyên số của UNIDO, Việt Nam được xếp trong nhóm các nền kinh tế tiêu dùng công nghệ số, trong số 40 nền kinh tế chủ động theo đuổi Công nghiệp 4.0. Nhập khẩu thiết bị, công nghệ số của Việt Nam đứng thứ 15, xuất khẩu công nghệ đứng thứ 46 và hoạt động sáng chế đứng thứ 48 trong số 150 nền kinh tế.
Tuy nhiên, một nghiên cứu của Ngân hàng thế giới khu vực Đông Á – Thái Bình Dương cho rằng 70% sản phẩm thuộc ngành công nghiệp chế biến chế tạo của Việt Nam được tạo ra qua việc sử dụng máy móc do con người điều khiển, 20% được làm thủ công, chỉ 9% được tạo ra qua việc sử dụng máy móc được điều khiển bằng máy vi tính, dưới 1% được tạo ra qua việc sử dụng công nghệ tiên tiến hơn như rô-bốt, sản xuất đắp lớp 3D.
Báo cáo của CSIRO và Bộ Khoa học và Công nghệ (KHCN) cũng cho thấy chỉ một phần nhỏ các doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào các hoạt động đổi mới sáng tạo. Ngoài ra, tỷ lệ doanh nghiệp có đầu tư cho hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) trong các ngành sản xuất còn rất thấp. Chẳng hạn, ngành sản xuất thiết bị điện là 17%, ngành sản xuất hóa chất là 15%, ngành sản xuất chế biến thực phẩm là 9%, ngành sản xuất sản phẩm từ cao su và nhựa là 7%, ngành sản xuất da và sản phẩm có liên quan là 6%, ngành dệt may là 5%.
“Như vậy, có thể thấy phát triển sản xuất thông minh ở Việt Nam đang đứng trước nhiều cơ hội khó khăn và thách thức đan xen”, ông Sơn nói.
Đồng quan điểm, ông Nguyễn Thiện Nghĩa, Phó cục trưởng phụ trách Cục Công nghiệp Công nghệ thông tin – Truyền thông thuộc Bộ Thông tin và Truyền thông (TTTT), đánh giá Việt Nam hiện ở giai đoạn 1 của quá trình phát triển công nghiệp là gia công lắp ráp để tận dụng nguồn nhân lực, chi phí cạnh tranh, trong khi các quốc gia như Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc đã ở giai đoạn 2 là làm sản phẩm tích hợp, từng bước tham gia chuỗi cung ứng, từng bước quản lý sản xuất, tối ưu hóa quy trình, hoặc giai đoạn 3 là làm sản phẩm, tự chủ một số công nghệ lõi.
Với hoạt động ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI), báo cáo “Chỉ số sẵn sàng về AI của chính phủ năm 2023” do tổ chức Oxford Insights kết hợp với Trung tâm nghiên cứu phát triển quốc tế của Canada thực hiện ghi nhận chỉ số sẵn sàng cho trí tuệ nhân tạo quốc gia của Việt Nam mới đạt mức 51,82/100, tăng 14 bậc so với năm trước và vượt qua mức trung bình toàn cầu là 47,72.
Lý giải những khó khăn trong việc phát triển công nghiệp – công nghệ số, bà Phan Thị Thanh Ngọc, Giám đốc tư vấn chuyển đổi số thuộc Công ty Công nghệ thông tin VNPT-IT, cho biết doanh nghiệp trong nước phải đối mặt với thách thức, gồm: sự cạnh tranh của doanh nghiệp công nghệ số trong khu vực ASEAN; mất cân đối sản xuất do phụ thuộc vào thị trường quốc tế; nguy cơ bị thâu tóm khi phụ thuộc vào khu vực FDI; khả năng khai phá dữ liệu chưa làm chủ; khả năng mất lợi thế nhân công giá rẻ và chảy máu chất xám.
Đặt doanh nghiệp công nghệ vào trung tâm của quá trình chuyển đổi số
Để thúc đẩy nền kinh tế chuyển dịch từ lắp ráp, gia công sang áp dụng công nghệ hiện đại vào sản xuất – kinh doanh, bà Phan Thị Thanh Ngọc cho rằng cần có sự kết hợp giữa tự cường và hợp tác quốc tế.
Tự cường, theo lý giải của bà Ngọc và đại diện một số doanh nghiệp, là kết hợp giữa nhà nước mạnh và thị trường mạnh. Ngoài ra, cần đặt doanh nghiệp công nghệ số phải là trung tâm, lấy chất lượng và thương hiệu Make in Việt Nam làm nền tảng, nhân lực tài năng là then chốt.
Với mục tiêu này, bà Đinh Thị Thúy, Tổng giám đốc MISA, khuyến nghị các doanh nghiệp nhà nước nên tập trung vào những nền tảng, hạ tầng số mà doanh nghiệp tư nhân không làm được để tạo bệ phóng cho người dân và doanh nghiệp tư nhân phát triển.
“Các cơ quan bộ, ban, ngành cần tập trung xây dựng chính sách, các tiêu chuẩn phần mềm do tư nhân phát triển để nâng cao chất lượng sản phẩm công nghệ của người Việt, góp phần phát triển ngành công nghệ thông tin nước nhà”, bà Thúy nói.
Cũng theo bà Thúy, Chính phủ cần chú trọng xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia, tiến tới chuyển đổi số toàn diện. Còn các bộ, ban, ngành nên cho phép doanh nghiệp công nghệ được kết nối vào cơ sở dữ liệu quốc gia trên cơ sở đảm bảo các tiêu chí do cơ quan quản lý công bố.
Bên cạnh đó, cho phép doanh nghiệp, người dân đóng góp và khai thác dữ liệu để thực hiện hiệu quả các hoạt động sản xuất – kinh doanh, thủ tục hành chính và các lĩnh vực xoay quanh đời sống.
Cũng liên quan tới nền tảng cơ sở dữ liệu, đại diện của Tập đoàn Viettel cho rằng các bên liên quan cần có sự tương tác với nhau để chia sẻ cũng như từ đó sản sinh, khai thác dữ liệu.
“Yêu cầu đặt ra cần có một hệ sinh thái tạo môi trường để tạo và quản lý, chia sẻ các sáng kiến về dữ liệu. Song, việc xây hệ sinh thái đang gặp một số vấn đề và thiếu rất nhiều yếu tố từ nhân tố lãnh đạo, cơ chế hợp tác, sự tin tưởng, chất lượng dữ liệu, tương tác, quy chế chia sẻ dữ liệu”, đại diện Viettel nêu vấn đề.
Theo đại diện Viettel, các cơ quan quản lý cần xây dựng một chính sách tường minh về công việc, trách nhiệm của các cấp, đơn vị, trên cơ sở áp dụng chế tài, cơ chế thúc đẩy công nghệ số. Mặt khác, cơ sở hạ tầng cần được đảm bảo từ viễn thông, cloud, IoT và AI.
Ngoài ra, cần có chính sách về phổ cập di động và internet để người dân tiếp cận rộng rãi dữ liệu số, môi trường hợp tác chặt chẽ giữa chính quyền và doanh nghiệp, khuyến khích doanh nghiệp tham gia chia sẻ dữ liệu. Về thu hút nguồn năng lực, việc hợp tác công-tư cần phải tăng cường, nhất là về tạo nguồn nhân lực có kiến thức, kỹ năng liên quan tới dữ liệu số.
Bà Phan Thị Thanh Ngọc đưa ra 5 đề xuất về chính sách phát triển ngành công nghiệp công nghệ số Việt Nam, gồm: ưu đãi cho doanh nghiệp công nghệ số Make in Việt Nam; kiểm soát chất lượng sản phẩm dịch vụ công nghệ số “Make in Vietnam”; xúc tiến, thúc đẩy nhu cầu; thu hút vốn đầu tư FDI và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực công nghệ số.
Cũng theo bà Ngọc, bên cạnh chính sách ưu đãi đặc thù cho cho doanh nghiệp công nghệ số Make in Việt Nam gồm ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế nhập khẩu và vay vốn, cũng cần có chính sách kiểm soát chất lượng sản phẩm dịch vụ công nghệ số “Make in Vietnam” thông qua các tiêu chí thống nhất cho các nền tảng chuyển đổi số quốc gia, hay các nguyên tắc, tiêu chí xác định các nền tảng số, sản phẩm dịch vụ công nghệ số Việt Nam cần hạn chế sở hữu nước ngoài.
Với cộng đồng doanh nghiệp, đại diện MISA cho rằng ba yếu tố gồm dễ tiếp cận, rẻ, nhanh mang đến kết quả là yêu cầu quan trọng nhất để xây dựng những giải pháp quản trị doanh nghiệp tối ưu, phục vụ chính xác nhu cầu của doanh nghiệp trong chuyển đổi số. Theo đó, đơn vị này đã xây dựng các giải pháp chuyển đổi số tài chính – kế toán nhằm kết nối các đơn vị cung cấp dịch vụ kế toán với các doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng trên toàn quốc với mức chi phí tiết kiệm. Đồng thời, hỗ trợ các doanh nghiệp sử dụng phần mềm kế toán, hóa đơn điện tử… có thể thực hiện vay vốn trực tuyến 100% qua nền tảng số mà không cần tài sản đảm bảo.