Hiến kế Việt Nam xây nhà máy điện hạt nhân
Nhìn lại thành công và khó khăn của các dự án trên thế giới, chuyên gia cho rằng Việt Nam nên sử dụng hợp đồng EPC và có cơ chế chia sẻ rủi ro giữa Nhà nước - chủ đầu tư - nhà thầu.

Nhà máy điện hạt nhân Vogtle ở Mỹ. Ảnh: Reuters.
Đây là khuyến nghị của TS Hoàng Sỹ Thân - Trưởng ban Kế hoạch và Quản lý khoa học, Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam, khi trình bày tham luận tại Hội nghị Khoa học và Công nghệ Điện lực toàn quốc năm 2025, do Hội Điện lực Việt Nam và Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) tổ chức mới đây.
Điện hạt nhân là lựa chọn chiến lược
TS Hoàng Sỹ Thân khẳng định điện hạt nhân là lựa chọn chiến lược để Việt Nam bảo đảm an ninh năng lượng và mục tiêu phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050.
Theo phân tích của ông cùng các đồng nghiệp tại Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam, năng lượng hạt nhân có thể giúp các quốc gia giảm phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch, bổ trợ cho các nguồn năng lượng tái tạo. Việc xây dựng máy điện hạt nhân sẽ gây ra phát thải nhà kính, nhưng trong quá trình vận hành thì gần như bằng không, ước tính 1 GW điện hạt nhân sẽ giúp giảm thiểu 4-6 triệu tấn CO2/năm, phù hợp với nhu cầu Net Zero.
Về mặt vận hành, điện hạt nhân có thể cung cấp lượng điện lớn, ổn định 24/7 với độ tin cậy cao, trái ngược với điện gió, điện mặt trời, vì vậy góp phần đảm bảo an ninh năng lượng, trong khi chi phí vận hành thấp, tuổi thọ lâu dài.
Thống kê của Hiệp hội Năng lượng hạt nhân thế giới cho thấy năng lượng hạt nhân chiếm khoảng 9% tổng nguồn cung năng lượng toàn cầu trong năm 2024. Hiện, Mỹ đang dẫn đầu với gần 782 TWh năng lượng hạt nhân, Trung Quốc và Pháp xếp sau với lần lượt 417,5 TWh và 364,4 TWh.

Mỹ, Trung Quốc, Pháp, Nga, Hàn Quốc hiện là những nước có công suất điện hạt nhân cao nhất thế giới. Nguồn: WNA, Vinatom cung cấp.
Hiện tại, có khoảng 30 quốc gia đang xem xét kế hoạch triển khai điện hạt nhân và hơn 20 quốc gia khác bày tỏ sự quan tâm tới điện hạt nhân cho mục tiêu Net Zero vào năm 2050.
Riêng với Việt Nam, theo Quy hoạch điện VIII điều chỉnh, đến giai đoạn 2030-2045, cả nước sẽ có 4.000-6.400 MW điện hạt nhân, đến năm 2050 dự kiến đạt 10.500-14.000 MW.
Hiện, Luật Năng lượng nguyên tử (sửa đổi) đã được ban hành, Quốc hội và Chính phủ cũng đã thông qua các nghị quyết về chủ trương đầu tư, cũng như các cơ chế, chính sách đặc thù để thực hiện dự án nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận.
Chính phủ cũng đã thành lập Ban Chỉ đạo quốc gia về xây dựng nhà máy điện hạt nhân, đồng thời triển khai xây dựng kế hoạch tổng thể phát triển hạ tầng, hoàn tất báo cáo INIR 2025 và đàm phán các thỏa thuận tín dụng quốc tế. Công tác giải phóng mặt bằng, chuẩn bị phương án tái định cư... cũng đang được thực hiện quyết liệt.
Việt Nam đang ở bước lựa chọn công nghệ phù hợp và chuẩn bị nền tảng cho việc xây dựng nhà máy điện hạt nhân an toàn, hiệu quả, bền vững.
Cơ hội rút ngắn đường cong học hỏi từ kinh nghiệm quốc tế
TS Hoàng Sỹ Thân cũng chia sẻ những bài học thực tế từ các dự án chậm tiến độ, "đội vốn" trên thế giới như tổ máy số 3 và 4 của nhà máy điện hạt nhân Vogtle (Mỹ), nhà máy Olkiluoto 3 (Phần Lan), nhà máy Hinkley Point C (Anh), nhà máy Rooppur (Bangladesh)...
Trong khi đó, nhà máy Barakah (UAE) có thể coi là một bài học thành công, khi được chuẩn bị kỹ lưỡng trên nhiều phương diện, hoàn thiện khung pháp lý trước khi khởi công và đào tạo lực lượng vận hành từ sớm. Dự án này được triển khai theo mô hình quốc gia - nhà thầu - tư vấn quốc tế, với cơ chế hợp đồng EPC (thiết kế - mua sắm - thi công).
Nhìn chung, TS Thân cho biết có hai cơ chế hợp đồng thường được áp dụng khi thực hiện các dự án trên thế giới, bao gồm EPC và chìa khóa trao tay. Trong đó, ông đánh giá mô hình hợp đồng EPC tích hợp có thể phù hợp hơn khi Việt Nam hiện còn thiếu kinh nghiệm, nhưng có mong muốn dần phát triển năng lực nội địa, chuyển giao công nghệ và đào tạo nhân lực.
Nhìn từ kinh nghiệm các nước, Việt Nam cần thiết kế mô hình quản trị và hợp đồng rõ ràng, đặc biệt phân tích kỹ các mô hình tài chính theo điều kiện của đất nước, tính đến lạm phát, rủi ro tỷ giá, và có cơ chế chia sẻ rủi ro giữa Nhà nước - nhà đầu tư - nhà thầu - người dùng điện, cũng như có kế hoạch dự phòng về tài chính và tiến độ dự án.
Việt Nam có cơ hội rút ngắn đường cong học hỏi nếu mạnh dạn chuẩn hóa thiết kế, chuyên nghiệp hóa quản trị dự án, đặt an toàn là giá trị cốt lõi và minh bạch với xã hội
TS Hoàng Sỹ Thân - Trưởng ban Kế hoạch và Quản lý khoa học, Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam
Bên cạnh đó, cần lựa chọn công nghệ an toàn nhất như chủ trương đã có, ưu tiên thiết kế đã vận hành thương mại, và yêu cầu gói cam kết đào tạo, chuyển giao công nghệ, bảo hành dài hạn.
"Thiết lập Văn phòng Quản lý Chương trình (PMO) cấp quốc gia cho điện hạt nhân, liên thông Ban Chỉ đạo - bộ ngành - địa phương; áp dụng hệ thống quản lý tích hợp (IMS), kiểm soát thay đổi, quản lý rủi ro theo ISO 31000", TS Thân gợi ý thêm.
Đồng thời, ông cho rằng Chính phủ nên huy động tư vấn chuyên gia quốc tế ngay từ giai đoạn tiền khả thi, tăng cường đãi ngộ và xây dựng chương trình đào tạo, giữ chân chuyên gia, nhân tài trong dài hạn, với mục tiêu tối thiểu 1.200-1.500 nhân sự vận hành, bảo dưỡng cho mỗi dự án 2 tổ máy trong 5-7 năm.
Song song đó là bảo đảm độc lập cơ quan pháp quy hạt nhân về tổ chức, ngân sách và nhân sự, cũng như tăng cường năng lực và chuẩn hóa đội ngũ thanh tra - kiểm định.
Thành công của dự án nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận phụ thuộc vào chất lượng của quá trình chuẩn bị về mặt thể chế, nhân lực, tài chính, công nghệ, chuỗi cung ứng, và kỷ luật thực thi theo chuẩn quốc tế.
"Việt Nam có cơ hội rút ngắn đường cong học hỏi nếu mạnh dạn chuẩn hóa thiết kế, chuyên nghiệp hóa quản trị dự án, đặt an toàn là giá trị cốt lõi và minh bạch với xã hội", TS Thân nhấn mạnh.
Nguồn Znews: https://znews.vn/hien-ke-viet-nam-xay-nha-may-dien-hat-nhan-post1607134.html












