Hiệp định EVFTA có hiệu lực từ tháng 8: Đường 'cao tốc' nhưng không dễ 'tăng tốc'

c ví như đường cao tốc nối Việt Nam với EU, hiệp định EVFTA vừa chính thức có hiệu lực từ tháng 8 đang được kỳ vọng sẽ mang lại cho DNVN nhiều cơ hội. Tuy nhiên, cũng phải nhìn nhận rõ, đường cao tốc mở nhưng DNVN cũng khó 'tăng tốc' nếu vẫn tư duy theo kiểu đi trên 'đường làng'.

FTA đã mang lại những gì?

Theo Bộ Công thương, trong vòng một năm qua, kể từ khi chính thức có hiệu lực đối với Việt Nam, việc thực thi Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), ngoại trừ Úc và Singapore giữ mức tương đương (do Việt Nam đã có quan hệ FTA trước đó), còn lại xuất khẩu sang các thị trường khác trong năm 2019 đều tăng mạnh. Trong sáu đối tác đã thực thi CPTPP, xuất khẩu của Việt Nam sang Canada tăng mạnh nhất (29,8%), sau đó là Mexico (26,3%). Việt Nam đã cấp 21.163 C/O mẫu CPTPP cho hàng hóa Việt Nam xuất khẩu đi các nước thuộc Hiệp định với tổng giá trị hàng hóa gần 600 triệu USD.

Cùng kỳ, việc thực hiện các hiệp định thuộc thẩm quyền phê chuẩn của Chủ tịch nước hoặc phê duyệt của Chính phủ cũng khá tích cực, với tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang các thị trường có FTA năm 2019 là 123,11 tỷ USD (năm 2004, Việt Nam mới có hai đối tác FTA là ASEAN và Trung Quốc với tổng kim ngạch xuất khẩu đạt gần 7 tỷ USD). Tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ các thị trường đối tác FTA của Việt Nam năm 2019 là 186 tỷ USD. Đáng lưu ý, FTA với những đối tác có nền sản xuất mang tính bổ sung với Việt Nam như Nhật Bản, Úc, New Zealand, Chile đem lại tác động tích cực hơn, cụ thể là Việt Nam ngày càng xuất siêu sang các thị trường này sau khi FTA có hiệu lực.

Tuy nhiên, những cơ hội từ CPTPP vẫn chưa được khai thác hết. Về tổng thể, Việt Nam vẫn nhập siêu từ các thị trường có FTA, nhất là với các đối tác có nền sản xuất mang tính bổ sung thấp, thậm chí cạnh tranh với Việt Nam. Hiện mới có khoảng 40% số tỉnh, thành phố có hoạt động xuất nhập khẩu với các nước CPTPP. Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) Vũ Tiến Lộc cho biết, hầu hết các doanh nghiệp (DN) đều đã “nghe nói” tới các FTA nhưng tỷ lệ các DN hiểu biết sâu về các FTA rất thấp. Trong khi cách thức hướng dẫn của các cơ quan nhà nước còn khó hiểu, phức tạp, thì rất nhiều DN cũng không có hành động chuẩn bị nào để tận dụng cơ hội hay dự phòng rủi ro từ việc thực thi các FTA. Theo khảo sát 8.600 DN tư nhân Việt Nam (trong khuôn khổ Điều tra PCI) do VCCI công bố hồi tháng 3/2019, tỷ lệ các DN có hiểu biết nhất định về các FTA tiêu biểu (đã tìm hiểu một số cam kết hoặc đã tìm hiểu kỹ) chỉ là thiểu số (kể cả FTA lớn như CPTPP), cao nhất là với Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) cũng chỉ đạt 37%. Tỷ lệ các DN có hiểu biết sâu về các FTA rất nhỏ, thấp nhất là với FTA giữa Việt Nam và Liên minh Kinh tế Á - Âu (EAEU) - chỉ 1%, cao nhất là với AEC cũng chỉ 3%.

Điều tra của VCCI từ năm 2016 tiến hành với DN trong bốn ngành sản xuất (dệt may, giày dép, đồ gỗ, điện tử) cho thấy, hai yếu tố lớn nhất cản trở DN hưởng lợi từ các FTA lần lượt là tình trạng thiếu thông tin về cam kết và cách thức thực hiện và bất cập trong công tác tổ chức thực thi của các cơ quan quản lý Nhà nước. Nhưng đáng nói hơn là ba năm sau khi tiến hành thăm dò tại một cuộc hội thảo về Hiệp định CPTPP với hơn 300 DN, kết quả vẫn không hề thay đổi!

Bánh ngon nhưng khó nuốt!

Giữa lúc dịch bệnh Covid-19 đang lan rộng và diễn biến phức tạp; nguồn cung nguyên vật liệu từ Trung Quốc bị gián đoạn đang ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của nhiều doanh nghiệp và ngành hàng của Việt Nam, thì việc Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam – châu Âu (EVFTA) chính thức có hiệu lực đang được kỳ vọng mở ra một cơ hội vàng thúc đẩy sự chuyển dịch các chuỗi giá trị để giảm bớt sự phụ thuộc quá lớn vào thị trường Trung Quốc.

Trong điều kiện có tới 98% doanh nghiệp Việt Nam là doanh nghiệp vừa và nhỏ, liệu các doanh nghiệp trong nước có khả năng tận dụng được những cơ hội lớn mà thị trường châu Âu mở ra? Châu Âu là thị trường lớn và cũng là thị trường truyền thống của doanh nghiệp Việt Nam. Năm 2019 vừa qua, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam và EU đạt 41,5 tỷ USD, chỉ xếp thứ 2 sau Hoa Kỳ. Khi Hiệp định EVFTA có hiệu lực, có trên 70% mặt hàng được giảm thuế và EU sẽ xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với 99,7% số dòng thuế. Đây là lợi thế lớn dành cho hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam. Theo TS Nguyễn Văn Tân - Trưởng khoa Quản trị - Kinh tế quốc tế, Trường Đại học Lạc Hồng thì: “Khi EVFTA tham gia vào thị trường thì VN chúng ta thay đổi tích cực hơn, nhanh hơn. Nó đòi các nhà lập chính sách phải nghiên cứu thật kỹ môi trường của EU để thể chế của chúng ta nó phù hợp ngay với việc ký kết các hiệp định. Chính vì vậy mà việc thay đổi Luật Lao động, Luật Môi trường nó giúp chúng ta bắt kịp với nhu cầu phát triển của quốc tế”.

Tuy nhiên không phải tất cả đều là thuận lợi. Để vào được thị trường châu Âu, hàng hóa dịch vụ Việt Nam cũng phải vượt qua được những quy định khắt khe về chất lượng sản phẩm, những tiêu chuẩn về môi trường, lao động và cả những hàng rào kỹ thuật mà các nước đặt ra để bảo hộ hàng hóa trong nước. Ông Trần Dục Dân – Giám đốc Công ty cổ phần giày dép Cao su màu Đồng Nai cho rằng: “Hiện nay ngành giày dép rất phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc. Chất lượng sản phẩm của họ tương đương với trong nước, nhưng giá cả họ thấp hơn 30-40%. Cũng đã nói nhiều lần, về ngành công nghiệp phụ trợ trong nước thì Nhà nước phải có chính sách vĩ mô thật là xuyên suốt, thật là quyết tâm thì chúng ta mới thoát được cái này. Ngay cả AFTA, tỷ lệ nội địa hóa chắc chắn Châu Âu sẽ có quy định rất ngặt nghèo. Nếu chúng ta không có một ngành công nghiệp phụ trợ mạnh, vẫn phụ thuộc vào Trung Quốc thì chúng ta chẳng qua chỉ xuất vật tư cho Trung Quốc. Và có AFTA cũng chỉ ngắm mà chơi thôi”.

Rõ ràng, bên cạnh những cơ hội mở ra bao giờ cũng có những thách thức đi kèm. Vấn đề là “luật chơi” được cam kết trong EVFTA là những điều khoản cụ thể và minh bạch. Khi tuân thủ những cam kết đã đặt ra, sẽ tạo áp lực từ phía Chính phủ trong việc hoàn thiện thể chế. Bản thân các doanh nghiệp, khi phấn đấu vượt qua những quy định về kiểm định chất lượng, thậm chí là những rào cản thương mại sẽ buộc doanh nghiệp phải đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực quản trị, từ đó giúp nâng cao chất lượng cũng như khả năng cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa, dịch vụ Việt Nam. Và trên tổng thể, điều này sẽ góp phần nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế.

Mở cửa đón gió lành

Rõ ràng không ai có thể làm thay DN trong việc tự nâng cao năng lực của mình, bao gồm cả năng lực nắm bắt thông tin và thích ứng với môi trường kinh tế mở. Đề cập đến Hiệp định EVFTA nói riêng và các FTA nói chung, TS Nguyễn Đức Thành - thành viên Liên minh Chính sách Nông nghiệp Việt Nam, Cố vấn trưởng Viện Nghiên cứu kinh tế và chính sách (VEPR) nói: “Để các DN Việt có thể được hưởng lợi từ Hiệp định EVFTA thì sản phẩm của chúng ta phải đáp ứng được nhiều tiêu chuẩn, thí dụ như trong lĩnh vực nông nghiệp là về môi trường, an toàn thực phẩm và cả lao động nữa”. Chính vì thế, ông Thành cho rằng, chưa nên kỳ vọng EVFTA có thể tạo ra những biến chuyển gì đột phá trong năm nay, năm sau và thậm chí một vài năm sau nữa. Chỉ một số ít DN lớn, đã có hệ thống tiêu chuẩn tốt, đã quen xuất khẩu sang các đối tác “khó tính” như Nhật Bản, Mỹ, châu Âu thì mới hưởng lợi.

Vẫn theo TS Nguyễn Đức Thành, DN có thể phải chấp nhận “phân cấp”: DN nhỏ và vừa nên xây dựng quan hệ đối tác với các DN lớn, vốn lớn, có khả năng kiểm soát chất lượng sản phẩm đáp ứng tiêu chuẩn châu Âu và đã quen với làm ăn quốc tế. Và “miếng bánh” sẽ được phân chia, ai cũng có phần tương xứng với đóng góp của mình.

Về phía quản lý nhà nước, các chuyên gia kinh tế có chung nhận định, với việc thực thi các FTA, xuất khẩu tăng rất nhanh, dẫn đến độ mở kinh tế quá lớn (tương đương 200% GDP). Thứ trưởng Công thương Trần Quốc Khánh - một trong những nhà đàm phán chủ chốt của Việt Nam trong tiến trình ký kết các FTA cũng chia sẻ quan điểm về sự cần thiết phải kiểm soát độ mở của nền kinh tế và cho rằng điều này không đi ngược lại chủ trương hội nhập. “Cập nhật chiến lược FTA, lựa chọn đối tác đàm phán một cách thận trọng, có nguyên tắc và thúc đẩy tiêu dùng trong nước” - đó là những lưu ý mà vị Thứ trưởng đặc biệt nhấn mạnh.

Còn theo Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng, một nhiệm vụ cần chú trọng trong thời gian tới là đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại, thúc đẩy các nước thành viên EU phê chuẩn Hiệp định bảo hộ đầu tư Việt Nam - EU. Chính phủ, đặc biệt là Bộ Tư pháp, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cần phối hợp chặt chẽ với Tòa án Nhân dân Tối cao để ban hành các văn bản pháp luật thi hành các FTA, giúp các hiệp định này được đưa vào cuộc sống một cách êm thuận, bảo đảm hiệu quả và thực chất.

Bên cạnh đó, Việt Nam phải tăng cường năng lực phát hiện, ngăn chặn những hành vi lợi dụng ưu đãi thuế quan mà các đối tác áp dụng đối với hàng hóa xuất xứ Việt Nam, gian lận xuất xứ để được hưởng ưu đãi về thuế đối với hàng hóa xuất khẩu. Với những FTA mà Việt Nam tham gia, hàng hóa nước ngoài “đội lốt” hàng Việt Nam sẽ làm giảm sức cạnh tranh của hàng Việt.

Hơn nữa, nếu hàng hóa giả xuất xứ từ Việt Nam xuất khẩu ồ ạt thì các nước nhập khẩu hàng sẽ áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại như chống bán phá giá, chống trợ cấp... khiến cho mức thuế tăng cao, ảnh hưởng rất lớn đến hàng Việt Nam đích thực. Đấy là nguy cơ nhãn tiền không thể không quan tâm xử lý.

Khánh An

Nguồn Công Luận: https://congluan.vn/hiep-dinh-evfta-co-hieu-luc-tu-thang-8-duong-cao-toc-nhung-khong-de-tang-toc-post89944.html