Hiệu quả công tác giảm nghèo ở Điện Biên
Những kết quả tích cực triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025 tại Điện Biên đã góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người nghèo và đồng bào dân tộc thiểu số, thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội trên địa bàn tỉnh.

Trồng cà phê giúp nhiều hộ dân thoát nghèo.
Nỗ lực triển khai
Căn cứ các văn bản của Chính phủ và hướng dẫn của các bộ, ngành Trung ương, tỉnh Điện Biên đã kịp thời ban hành các văn bản chỉ đạo, triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025, bảo đảm bám sát tình hình thực tiễn và phù hợp năng lực thực thi của các cấp cơ sở. Công tác xây dựng kế hoạch, phân bổ nguồn vốn thực hiện đầy đủ, kịp thời, thường xuyên đôn đốc đẩy nhanh tiến độ giải ngân, tháo gỡ khó khăn vướng mắc; công tác tuyên truyền, vận động được tăng cường.
Về kế hoạch vốn Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025 là 2.279.076 triệu đồng (trong đó vốn đầu tư phát triển là 1.606.004 triệu đồng, vốn sự nghiệp là 673.072 triệu đồng), từ năm 2022 đến 2025 đều phân bổ đạt 100% kế hoạch giao.
Năm 2024 kết quả giảm tỷ lệ hộ nghèo đạt 4,39%, đạt và vượt mục tiêu đề ra (mục tiêu Thủ tướng Chính phủ giao 4%/năm), là năm thứ ba liên tiếp tỷ lệ hộ nghèo của tỉnh Điện Biên giảm hơn 4%. Công tác triển khai các dự án thuộc nguồn vốn thực hiện Chương trình cơ bản thuận lợi, các dự án phù hợp mục tiêu, đối tượng và nội dung hỗ trợ của Chương trình, bước đầu mang lại lợi ích cho đối tượng thụ hưởng.

Mô hình trồng cây mít Thái.
Nổi bật là 100% các huyện (cũ) nghèo được hỗ trợ đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội liên kết vùng, phục vụ dân sinh, sản xuất, thương mại, lưu thông hàng hóa và cung cấp các dịch vụ xã hội cơ bản. Hỗ trợ xây dựng hàng trăm mô hình, dự án giảm nghèo hỗ trợ phát triển sản xuất, kinh doanh dịch vụ, khởi nghiệp, khởi sự kinh doanh nhằm tạo sinh kế, việc làm, thu nhập bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu, dịch bệnh cho hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo; 100% cán bộ làm công tác giảm nghèo được bồi dưỡng, tập huấn kiến thức, kỹ năng cơ bản về quản lý, tổ chức thực hiện các chương trình, chính sách, dự án giảm nghèo. Cùng với đó, 100% người dân thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo được hỗ trợ tham gia bảo hiểm y tế; đã thực hiện hỗ trợ nhà ở cho 8.179 hộ nghèo, hộ cận nghèo; 90,27% hộ nghèo, hộ cận nghèo sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh; 95% các hộ gia đình sinh sống địa bàn huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn được tiếp cận thông tin về giảm nghèo bền vững thông qua các hình thức xuất bản phẩm, sản phẩm truyền thông. Tỷ lệ người lao động thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo và thuộc vùng nghèo, vùng khó khăn qua đào tạo ngày càng tăng.
Việc phát triển các mô hình liên kết sản xuất - chế biến - tiêu thụ gắn với chuỗi giá trị, đặc biệt đối với các sản phẩm chủ lực như mắc ca, cà phê, dứa, không chỉ giúp nâng cao thu nhập cho hộ nghèo, hộ cận nghèo và người dân vùng đặc biệt khó khăn, mà còn tạo tiền đề quan trọng để xây dựng nền nông nghiệp bền vững, hiện đại, gắn sản xuất với thị trường. Tại nhiều xã có thổ nhưỡng, khí hậu phù hợp trồng cây cà-phê, các hộ dân được hỗ trợ các vật tư thiết yếu, cán bộ kỹ thuật hướng dẫn để người dân tự gieo ươm, trồng, chăm sóc, đem lại hiệu quả kinh tế, thu nhập gấp nhiều lần trồng ngô, sắn, giúp thoát nghèo bền vững. Nhiều hộ dân chia sẻ, trồng cây cà-phê 1 lần cho thu hoạch trong nhiều năm; công, chi phí chăm sóc thấp, kỹ thuật chăm sóc khá đơn giản, lại được bao tiêu đầu ra nên yên tâm, phấn khởi. Anh Tòng Văn Dọn ở xã Tuần Giáo cho biết, được chính quyền địa phương tuyên truyền, tích cực hỗ trợ nên đã mạnh dạn trồng mắc ca và cà phê trên 1 ha đất đồi, đời sống bớt khó khăn, ngày càng khấm khá.
Theo Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Lò Hồng Phong, Phong trào thi đua “Vì người nghèo - Không để ai bị bỏ lại phía sau” được phát động rộng rãi, phù hợp điều kiện thực tế từng địa phương, lan tỏa mạnh mẽ, thu hút sự quan tâm của toàn xã hội, góp phần thực hiện thắng lợi Chương trình giảm nghèo. Nhiều dự án giảm nghèo được triển khai đồng bộ, hiệu quả, góp phần thúc đẩy sản xuất, cải thiện đời sống người dân, thay diện mạo nông thôn. Nhiều hộ nghèo được tiếp thêm động lực, phát huy tinh thần tự lực, vượt khó, vươn lên trong cuộc sống.
Cần kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc
Thẳng thắn nhìn nhận, kết quả giảm nghèo trên địa bàn tỉnh chưa thật sự bền vững; tỷ lệ hộ nghèo còn cao, một số hộ nghèo có xu hướng thoát lên cận nghèo; chênh lệch thu nhập giữa các hộ, nhóm hộ, các vùng, các dân tộc còn cao, tiềm ẩn nhiều yếu tố gia tăng khoảng cách. Tình trạng thiếu đất canh tác nông nghiệp còn tồn tại ở nhiều vùng. Các điều kiện khó khăn hội tụ ở người nghèo nhiều nên khó khắc phục ngay, một bộ phận người nghèo, hộ nghèo còn lúng túng để tự lựa chọn phương thức thoát nghèo.

Mô hình sinh kế giúp nhiều hộ nghèo nâng cao đời sống.
Tỉnh Điện Biên là một tỉnh miền núi thuần nông, xa các trung tâm kinh tế lớn của cả nước, địa hình chia cắt phức tạp, giao thông đi lại khó khăn; xuất phát điểm kinh tế thấp, tỷ lệ nghèo đa chiều khu vực nông thôn cao, thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn thấp, chủ yếu từ hoạt động nông nghiệp; đất đai manh mún, độ dốc cao; dân cư sống phân tán, nhận thức của người dân không đồng đều.. là trở ngại lớn trong sản xuất nông, lâm nghiệp. Thời tiết biến đổi bất thường như rét đậm, rét hại, mưa lũ, sạt lở...ảnh hưởng lớn đến sản xuất nông nghiệp và đời sống người dân. Đa phần người nông dân thiếu vốn đầu tư, trình độ canh tác hạn chế; việc tiếp cận, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp còn ít; thị trường tiêu thụ sản phẩm nông sản khó khăn, bấp bênh, không ổn định.
Các hộ nghèo phần lớn là hộ đồng bào dân tộc thiểu số, địa bàn sinh sống rải rác tại các xã đặc biệt khó khăn và xã khó khăn, trình độ dân trí thấp, không đồng đều; cơ sở hạ tầng thiết yếu còn yếu kém chưa đồng bộ, điều kiện thực tế về đời sống, sản xuất kinh doanh tại các địa bàn vùng cao, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số kém phát triển còn gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn. Mức hỗ trợ kinh phí dự án hỗ trợ phát triển sản xuất tại cộng đồng trên địa bàn không thuộc vùng khó khăn và đặc biệt khó khăn là 60%, các hộ dân tham gia dự án phải đối ứng tới 40%, vì vậy nhiều hộ nghèo, cận nghèo, mới thoát nghèo không có điều kiện để tham gia. Phần lớn hộ nghèo, hộ cận nghèo tại các địa bàn khó khăn, đặc biệt khó khăn đề xuất Nhà nước hỗ trợ nuôi bò, trâu sinh sản (do chăn nuôi lợn và gia cầm hiệu quả kinh tế cao, dịch bệnh nhiều).
Một số nội dung bất cập về cơ chế, đối tượng tại một số tiểu dự án, dự án quy định còn vướng mắc, chưa được tháo gỡ nên chưa tạo điều kiện cho các địa phương triển khai thực hiện. Tiến độ thực hiện một số dự án, tiểu dự án, nội dung thành phần của Chương trình còn chậm, giải ngân vốn chưa cao. Không ít xã còn khó khăn, lúng túng trong triển khai các dự án hỗ trợ phát triển sản xuất do chưa có hướng dẫn mua sắm cây trồng, vật nuôi và những hàng hóa dịch vụ do người dân trực tiếp sản xuất; một số cây trồng được chuyển đổi nhưng kém phát triển do không phù hợp điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu hoặc thiếu sự chăm sóc của người dân.
Số lượng văn bản quy định, hướng dẫn liên quan đến tổ chức thực hiện nhiều và có văn bản phải thay đổi bổ sung, có nội dung chưa thống nhất, chưa rõ ràng nên khó khăn cho việc nghiên cứu áp dụng thực hiện việc phân bổ chi tiết đến từng nội dung, nhiệm vụ, tiểu dự án đối với các Chương trình mục tiêu quốc gia đã làm giảm tính chủ động, chưa thật sự phân cấp, phân quyền, gây khó khăn trong việc phân bổ và tổ chức triển khai thực hiện.

Nhiều hộ dân được hướng dẫn kỹ thuật trồng trọt, tăng năng suất.
Các đơn vị chủ trì liên kết thực hiện các dự án liên kết phát triển sản xuất và tiêu thụ sản phẩm theo chuỗi giá trị không được hỗ trợ về hạ tầng phục vụ liên kết, bao gồm: máy móc, trang thiết bị; xây dựng các công trình hạ tầng phục vụ liên kết nhà xưởng, bến bãi, kho tàng phục vụ sản xuất, sơ chế, bảo quản, chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, hỗ trợ từ nguồn ngân sách nhà nước còn hạn chế nên không thu hút được các đơn vị chủ trì liên kết tham gia thực hiện dự án liên kết trên địa bàn.
Một số cấp ủy, chính quyền xã chưa xác định được công tác giảm nghèo là trách nhiệm của mình, còn cho đó là trách nhiệm của cấp tỉnh, xác định các mục tiêu, giải pháp thực hiện công tác giảm nghèo còn chung chung, chưa cụ thể; triển khai thực hiện các chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất, đa dạng hóa sinh kế và nhân rộng mô hình giảm nghèo còn lúng túng.
Trình độ năng lực của cán bộ, công chức cấp xã không đồng đều, hay thay đổi, luân chuyển cán bộ mới, vì vậy mất nhiều thời gian cho công tác cập nhật thông tin và làm quen công việc. Thiếu cán bộ chuyên trách nên tổ chức triển khai thực hiện các chương trình, dự án giảm nghèo tại địa phương gặp khó khăn, chậm tiến độ. Một bộ phận không nhỏ người nghèo còn trông chờ, ỷ lại vào sự hỗ trợ của Nhà nước, nên chưa quyết tâm vươn lên thoát nghèo.
Phát huy kết quả tích cực đạt được, khắc phục kịp thời vướng mắc, hạn chế sẽ tạo đà thực hiện hiệu quả công tác giảm nghèo trong thời gian tới.
Giai đoạn 2021-2024 (theo chuẩn nghèo giai đoạn 2021-2025), tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ 34,9% năm 2021 xuống còn 21,29% năm 2024, bình quân giảm 4,53%/năm (giảm 16.906 hộ nghèo) đạt 113,25% mục tiêu hằng năm Nghị quyết, dự ước đến cuối 2025 giảm bình quân 4,4%/năm đạt mục tiêu kế hoạch.
Nguồn Nhân Dân: https://nhandan.vn/hieu-qua-cong-tac-giam-ngheo-o-dien-bien-post927045.html












