Hiệu quả hỗ trợ cần đặt trong tổng thể các chính sách đã ban hành, thực thi

Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ: GS. Jonathan Pincus, Chuyên gia Kinh tế Cao cấp của Tổ chức Liên Hợp Quốc tại Việt Nam cho rằng, để phục hồi và phát triển kinh tế trong giai đoạn hiện nay, cùng với những biện pháp về tài khóa, tiền tệ, cần quan tâm đến chi tiêu của người dân. Khi người dân được hưởng lợi sẽ kích thích chi tiêu, từ đó các doanh nghiệp hưởng lợi từ vòng quay mua sắm và tiếp tục tăng cường sản xuất kinh doanh.

Tôi cho rằng, nên chăng khi đánh giá việc thực hiện Nghị quyết 43 của Quốc hội, cần phải đánh giá trong tổng thể các chính sách mà Việt Nam đã ban hành và thực hiện từ năm 2020, bao gồm cả các chính sách thực hiện Nghị quyết số 30/2021/QH15 Kỳ họp thứ Nhất, Quốc hội Khóa XV, Nghị quyết 42 của Quốc hội trong suốt năm 2020 - 2021, các chính sách được Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành ngày 31.12.2021 và thực hiện cho năm 2022? Ví dụ, việc Việt Nam quyết định sử dụng kết dư của Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp ngay một lúc chi tới 38.000 tỷ đồng bằng tiền mặt, sau đó, vẫn tiếp tục kéo dài chính sách này chi thêm hơn 1.500 tỷ đồng, cộng với 6.600 tỷ đồng hỗ trợ tiền thuê nhà (theo Nghị quyết số 43) là vào khoảng 2 tỷ USD, chưa kể phần chi khá lớn của các địa phương nhằm trợ cấp trực tiếp cho người dân, người lao động.

Những chính sách trên có tính là chi trực tiếp cho người dân hay không? Chuyên gia cho rằng chỉ có giảm thuế thì không hiệu quả nếu chưa chi trực tiếp cho người dân. Vậy kinh nghiệm quốc tế chi trực tiếp cho người dân như thế nào? Nguồn từ đâu và tỷ trọng là bao nhiêu? Chưa kể trong giai đoạn 2019 - 2020, hỗ trợ cho doanh nghiệp và người dân của Việt Nam bằng tiền mặt là rất lớn.

Ở góc độ khác, thực tế các nước có tỷ lệ lạm phát khá cao, trong khi Việt Nam lại duy trì được ở mức thấp. Việt Nam đã nghiên cứu rất kỹ và thấy rằng, vì ngân sách tài khóa chúng tôi không có nhiều nên thay vì chi tiền trực tiếp cho người dân thì giảm thuế giá trị gia tăng 2% sẽ giúp bất cứ người dân nào cũng được hưởng, với số tiền ít hơn nhưng người dân mua được nhiều hàng hóa hơn. Việc thực thi chính sách này cũng rất nhanh và hiệu quả. Chính sách này đã giảm thu ngân sách nhà nước hàng chục nghìn tỷ đồng. Vậy đây có phải là chính sách chi tiền trực tiếp không? Chưa kể chính sách này còn có tác động kép, góp phần giảm lạm phát. Đây là vấn đề liên quan đến nhận thức và kinh nghiệm quốc tế vì mỗi nước có hoàn cảnh rất khác nhau.

Liên quan đến vấn đề lao động, việc làm, thực tế tại nhiều nước sau đại dịch Covid-19 cho thấy, số người mất việc làm thấp nhưng người tham gia vào thị trường lao động cũng thấp. Tương tự ở Việt Nam, số người nói là thất nghiệp không nhiều nhưng một số ngành thiếu lao động cục bộ. Phải chăng có một bộ phận người lao động đang khu trú ở đâu đó sau đại dịch Covid-19 ? Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội cũng cần nghiên cứu vấn đề này. Dường như có một bộ phận người lao động chưa sẵn sàng quay trở lại làm việc. Trên thế giới, xu hướng này ra sao? Có những vấn đề sau Diễn đàn có thể kết luận được, nhưng cũng có những vấn đề chưa thể kết luận được mà gợi mở để tiếp tục nghiên cứu cũng chính là kết quả của Diễn đàn.

Chuyên gia Kinh tế Cao cấp của Tổ chức Liên Hợp Quốc tại Việt Nam Jonathan Pincus: Thực tiễn từ châu Âu và Bắc Mỹ cho thấy, ảnh hưởng của chính sách tài khóa là nhỏ, trong khi những khoản chi tiêu trong gia đình mới đóng góp lớn vào khôi phục ngân sách nhà nước. Từ góc độ cầu ở Mỹ và châu Âu cho thấy, các khoản hỗ trợ người lao động từ ngân sách địa phương và ngân sách của doanh nghiệp. Với khoản hỗ trợ này, người lao động vẫn có thể đóng tiền nhà và trang trải các khoản chi phí sinh hoạt hàng ngày khác. Chính sách giảm thuế thu nhập thường áp dụng trong các cuộc khủng hoảng không quá nghiêm trọng. Còn ích lợi của việc hỗ trợ bằng tiền mặt là giúp điều hòa nguồn thu ngân sách. Bởi vậy, Mỹ và châu Âu rất quan tâm tới chính sách này.

Về thị trường lao động, việc hỗ trợ bằng tiền mặt không phải là nguyên nhân khiến người lao động rút khỏi thị trường. Các khoản hỗ trợ chỉ được chi trả khi có dịch. Khi hết dịch, các khoản hỗ trợ này bị cắt nên người lao động vẫn phải quay lại làm việc để có thu nhập. Nguyên nhân người lao động không quay trở lại làm việc có thể là do sức khỏe của họ bị suy giảm sau đại dịch, vì thống kê cho thấy 10% người bị nhiễm Covid-19 có vấn đề nghiêm trọng về sức khỏe hậu Covid-19, nhất là với người lớn tuổi, và cần nhiều thời gian để hồi phục. Ngoài ra, có thể do lao động di cư không trở lại nơi làm việc sau khi hết dịch; do công nghệ trí tuệ nhân tạo đã thay thế nhiều công việc mà con người trước đây đảm nhiệm và do nhiều nguyên nhân đặc thù ở mỗi quốc gia khác nhau…

Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ: Nếu Chính phủ có nhiều tiền mặt để chi thì rất dễ dàng. Nhưng vấn đề là các nước có tài khóa khó khăn như Việt Nam nhưng vẫn tìm cách chi bằng tiền mặt và chi khá nhiều. Ở đây, vấn đề đánh giá tỷ trọng, phương pháp hỗ trợ và hiệu quả của các chính sách hỗ trợ phải chăng không chỉ đơn thuần theo Nghị quyết số 43 của Quốc hội và Nghị quyết số 11 của Chính phủ mà phải đặt trong tổng thể các gói giải pháp, chính sách đã áp dụng từ đầu năm 2019 đến nay. Tại sao tỷ lệ khách du lịch nội địa và bán lẻ vẫn tăng? Vì cầu của Việt Nam vẫn tốt, không có chuyện suy giảm cầu ở Việt Nam. Do đó nên chăng phải có đánh giá kỹ lưỡng hơn, nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế áp dụng ở Việt Nam như thế nào. Đây là vấn đề về chính sách.

Về việc người lao động chưa quay trở lại làm việc, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội cần phải có cơ sở dữ liệu để đánh giá thực trạng và xu hướng để có chính sách tới đây huy động người lao động trở lại làm việc, vì bộ phận lao động này đã từng tham gia thị trường, có kinh nghiệm, có kỹ năng, được đào tạo rồi mà không thu hút họ quay trở lại thị trường được là không nên.

Q. Chi ghi; Ảnh: Lâm Hiển

Nguồn Đại Biểu Nhân Dân: https://daibieunhandan.vn/dien-dan-quoc-hoi-va-cu-tri/hieu-qua-ho-tro-can-dat-trong-tong-the-cac-chinh-sach-da-ban-hanh-thuc-thi-i301056/