Hiệu quả kinh tế từ các mô hình nuôi tôm công nghiệp
Thời gian qua, các mô hình nuôi tôm công nghiệp 2 giai đoạn ứng dụng công nghệ biofloc, nuôi tôm lót bạt đáy và xung quanh bờ ao nuôi,... được người dân tại các địa phương ven biển của tỉnh áp dụng rộng rãi, mang lại năng suất, hiệu quả kinh tế cao.
Mô hình nuôi tôm công nghiệp 2 giai đoạn tại xã Hoằng Yến (Hoằng Hóa).
Hiện nay, mô hình nuôi tôm công nghiệp lót bạt đang được sử dụng phổ biến ở các địa phương ven biển nhờ những ưu điểm vượt trội mà nó mang lại. Đây là hình thức giúp người nuôi quản lý tốt việc cung cấp đủ oxy cho tôm, kiểm soát lượng thức ăn, xi-phông, kiểm soát được môi trường nước nên tôm tăng trưởng, phát triển tốt, năng suất và hiệu quả kinh tế cao. Ngoài ra, người nuôi còn tiết kiệm được chi phí trong quá trình vận hành ao nuôi, chi phí về điện, chi phí hóa chất cải tạo ao nuôi... Thời gian gần đây, nhiều hộ nuôi đã đầu tư xây dựng ao tròn nổi lót bạt và nhà lưới che phủ nuôi tôm công nghiệp, nuôi thâm canh. Các hộ nuôi sử dụng hạt floc để tạo nguồn thức ăn tự nhiên cho tôm, giúp các vi sinh vật có lợi và hạn chế các vi sinh vật có hại và phân giải các chất hữu cơ làm sạch đáy và môi trường ao nuôi. Với hình thức nuôi này, nhiều hộ nuôi đã ứng dụng nuôi thâm canh tôm thẻ chân trắng 2 giai đoạn.
Ông Trần Văn Lợi, xã Quảng Nham (Quảng Xương), cho biết: Giai đoạn đầu của quy trình ương nuôi từ 20 - 25 ngày với mật độ nuôi từ 1.000 - 3.000 con/m2, cỡ tôm thả PL 10-12; giai đoạn 2 nuôi từ 70 - 75 ngày với mật độ nuôi 120 - 150 con/m2. Thực nghiệm cho thấy nuôi tôm thẻ chân trắng 2 giai đoạn, tôm có tỷ lệ sống đạt hơn 80%, kích cỡ dao động 50 - 55 con/kg, tổng sản lượng duy trì hơn 20 tấn/ha, lợi nhuận đạt từ 1 đến 1,2 tỷ đồng/ha. Trong quá trình nuôi, mặc dù có nhiều bất lợi do điều kiện thời tiết như nắng nóng kéo dài, mưa lớn, tình hình dịch bệnh xung quanh khu vực nuôi có diễn biến phức tạp... nhưng với hình thức nuôi này không bị ảnh hưởng.
Với mô hình nuôi tôm công nghiệp ứng dụng công nghệ Semi Biofloc cũng đang được người nuôi ở các huyện Hoằng Hóa, Nga Sơn, Hậu Lộc, Quảng Xương... đầu tư thực hiện. Để nuôi tôm theo công nghệ này các ao nuôi được đầu tư lót bạt nền đáy và bờ ao kết hợp hệ thống xi-phông tự động. Ngoài ra, khu nuôi có ao chứa nước và ao xử lý chất thải. Nước để nuôi được bơm vào bể lọc, sau đó đưa vào ao lắng đất, rồi đưa vào ao lắng bạt để xử lý. Ngoài hệ thống công trình ao nuôi, còn đầu tư các khu nuôi cấy vi sinh dùng hỗn hợp nước, mật rỉ đường, vi sinh... tạo biofloc trong thùng phuy để đưa xuống ao nuôi. Sau đó, chạy quạt và sục khí để biofloc phát triển và ức chế vi sinh vật gây bệnh... Đây là yếu tố quan trọng để giúp tôm nuôi sinh trưởng và phát triển. Vì vậy, chi phí đầu tư cho 1 ha khoảng hơn 1 tỷ đồng, bao gồm cơ sở vật chất, hạ tầng và thiết bị. Ông Lê Văn Phượng, thôn Châu Triều, xã Hoằng Châu (Hoằng Hóa), cho biết: Mặc dù chi phí cao nhưng quy trình này giúp người nuôi an toàn, hiệu quả hơn và mang tính bền vững cao. Hình thức nuôi này là làm sạch, ổn định môi trường ao nuôi bằng vi tảo; còn biofloc là vi khuẩn dị dưỡng, tảo, mùn giúp làm sạch nước, cung cấp nguồn thức ăn giàu dinh dưỡng cho đối tượng nuôi, ức chế sự phát triển của các vi sinh vật gây bệnh. Từ đó, tôm nuôi mau lớn, kiểm soát được dịch bệnh, sản phẩm đảm bảo an toàn thực phẩm. Mô hình này sử dụng thức ăn công nghiệp và chế phẩm sinh học để bổ sung vào thức ăn, quản lý môi trường ao nuôi. Tôm nuôi ở đây khoảng 2,5 - 3 tháng là thu hoạch, đạt kích cỡ 40 - 55 con/kg, bán với giá khoảng 170 - 180 nghìn đồng/kg, cao hơn giá tôm nuôi truyền thống. Nhờ tôm lớn nhanh, kiểm soát được dịch bệnh, mỗi năm trang trại nuôi được 3 vụ.
Qua các mô hình nuôi tôm công nghiệp ứng dụng các hình thức nuôi tiên tiến đang mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người nuôi trồng thủy sản. Với các hình thức nuôi này đã từng bước làm thay đổi tập quán nuôi tôm truyền thống của người dân. Đồng thời, góp phần tích cực trong việc thực hiện Kế hoạch số 101/KH-UBND ngày 11-5-2018 của UBND tỉnh về phát triển ngành tôm tỉnh Thanh Hóa trở thành ngành sản xuất lớn, bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu và bảo vệ môi trường sinh thái.