Hỗ trợ doanh nghiệp thủy sản giảm rủi ro, mở rộng thị trường trước rào cản

Ngành thủy sản Việt Nam đang chịu áp lực từ rào cản thương mại, thuế chống bán phá giá và yêu cầu truy xuất nguồn gốc. Kiểm tra đối tác, minh bạch dữ liệu và chuẩn hóa xuất khẩu trở thành yếu tố sống còn giúp doanh nghiệp duy trì thị trường, giảm rủi ro và nâng cao sức cạnh tranh quốc tế.

Cuộc chiến giữ thị phần thủy sản

Dưới sức ép phòng vệ thương mại ngày càng gia tăng, cộng đồng doanh nghiệp thủy sản xuất khẩu của Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều khó khăn lớn. Trước hết, số vụ điều tra chống bán phá giá, chống trợ cấp và chống lẩn tránh thuế tăng nhanh, với gần 300 vụ tính đến tháng 11/2025, khiến doanh nghiệp liên tục đối diện rủi ro bị áp thuế cao hoặc mất thị trường. Phạm vi điều tra ngày càng mở rộng, không chỉ vào tôm, cá tra mà còn lan sang những mặt hàng giá trị nhỏ; nội dung điều tra cũng phức tạp hơn, từ cáo buộc định giá thấp tiền tệ đến trợ cấp xuyên quốc gia đối với doanh nghiệp FDI.

Dự kiến cả năm 2025, xuất khẩu thủy sản có thể cán mốc 11 tỷ USD

Dự kiến cả năm 2025, xuất khẩu thủy sản có thể cán mốc 11 tỷ USD

Cùng với đó là thời gian điều tra kéo dài, có vụ tới ba năm, khiến khách hàng e ngại, đơn hàng sụt giảm mạnh. Nhiều thị trường áp dụng đồng thời nhiều biện pháp một lúc, tạo áp lực tuân thủ lớn, trong khi yêu cầu dữ liệu ngày càng chi tiết nhưng thời hạn phản hồi lại rất ngắn.

Ngoài ra, việc một số nước vẫn coi Việt Nam là nền kinh tế phi thị trường khiến cách tính biên độ phá giá bất lợi hơn, đẩy rủi ro thuế lên mức khó lường. Tất cả đang tạo ra thách thức chưa từng có cho ngành thủy sản trong duy trì thị trường và năng lực cạnh tranh.

Ông Huỳnh Tấn Tài, Giám đốc kinh doanh công ty giống thủy sản Đại Phát cho biết: “Hiện nay, nguồn cung tôm châu Á rất dồi dào, nhưng khi xuất khẩu sang các thị trường khó tính như EU và Nhật Bản, vấn đề an toàn thực phẩm lại gây nhiều lo ngại. Nhiều hộ nuôi vẫn lạm dụng kháng sinh, dẫn đến dư lượng vượt ngưỡng cho phép. Điều này khiến sản phẩm không đáp ứng yêu cầu kiểm dịch, ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng tiếp cận và duy trì các thị trường xuất khẩu quan trọng”.

Theo Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP): Dự kiến năm 2025, xuất khẩu thủy sản có thể cán mốc 11 tỷ USD. Về cơ cấu ngành hàng, tôm tiếp tục dẫn dắt với 3,9 tỷ USD, cá tra đạt 1,8 tỷ USD. Các mặt hàng mực, bạch tuộc tăng trưởng mạnh, trái ngược với đà giảm của cá ngừ.

Triển vọng ngành tôm vẫn phụ thuộc nhiều vào khả năng vượt rào cản thương mại và cải thiện tính minh bạch trong toàn chuỗi

Triển vọng ngành tôm vẫn phụ thuộc nhiều vào khả năng vượt rào cản thương mại và cải thiện tính minh bạch trong toàn chuỗi

Tuy nhiên, theo bà Nguyễn Ngô Vi Tâm, Chủ tịch ngành hàng cá nước ngọt (VASEP), cộng đồng nuôi và xuất khẩu thủy sản nước ngọt, đặc biệt là cá tra ở Đồng bằng sông Cửu Long, vẫn đối mặt nhiều thách thức lớn dù duy trì được tăng trưởng. Các thị trường trọng điểm như Mỹ, EU, Trung Quốc và châu Á đều siết chặt yêu cầu chất lượng, minh bạch và truy xuất nguồn gốc.

Riêng tại Mỹ, thuế đối ứng 20% áp từ tháng 8/2025 khiến lượng xuất khẩu sụt giảm mạnh, cộng thêm vụ kiện chống bán phá giá kéo dài hơn 20 năm tiếp tục tạo gánh nặng chi phí và rủi ro. Doanh nghiệp và người nuôi phải đầu tư lớn để đáp ứng kiểm định, kiểm dịch và hệ thống hồ sơ nuôi, những yêu cầu ngày càng khắt khe.

Bên cạnh đó, ngành còn chịu áp lực từ chi phí thức ăn, con giống, logistics lạnh tăng cao, trong khi cạnh tranh từ các nước trong khu vực ngày càng gay gắt.

Dù sản lượng cá và tôm 10 tháng đều tăng, kim ngạch xuất khẩu đạt 9,5 tỷ USD, nhưng triển vọng vẫn phụ thuộc nhiều vào khả năng vượt rào cản thương mại và cải thiện tính minh bạch trong toàn chuỗi. Đây là bài toán khó đòi hỏi sự đồng hành mạnh mẽ hơn từ các bộ, ngành và chính quyền địa phương. Các doanh nghiệp cũng đang rất nỗ lực để bảo chứng cho sản phẩm Việt, nâng cao khả năng cạnh tranh.

“Trong vụ kiện chống bán phá giá kéo dài nhiều năm, ngành cá tra vẫn có một số thuận lợi. Nhờ sự hỗ trợ liên tục của các luật sư, Bộ Công Thương và Bộ Nông nghiệp trong quá trình xử lý hồ sơ phòng vệ thương mại, ngày càng nhiều doanh nghiệp đạt được mức thuế chống bán phá giá 0% hoặc mức thuế rất thấp khi xuất khẩu sang Mỹ. Đây là yếu tố quan trọng giúp doanh nghiệp duy trì thị trường, giữ được sức cạnh tranh và tiếp tục mở rộng xuất khẩu vào thị trường khó tính này” - bà Nguyễn Ngô Vi Tâm thông tin thêm.

Cộng đồng nuôi và xuất khẩu thủy sản nước ngọt, đặc biệt là cá tra ở Đồng bằng sông Cửu Long, vẫn đối mặt nhiều thách thức lớn dù duy trì được tăng trưởng

Cộng đồng nuôi và xuất khẩu thủy sản nước ngọt, đặc biệt là cá tra ở Đồng bằng sông Cửu Long, vẫn đối mặt nhiều thách thức lớn dù duy trì được tăng trưởng

Kiểm tra đối tác để tránh “bẫy” thuế

Theo ông Bùi Quang Thịnh, Giám đốc phát triển kinh doanh CRIF D&B Việt Nam, dữ liệu ngành thủy sản Việt Nam phản ánh rõ sự phân hóa và rủi ro tiềm ẩn. Việt Nam hiện có khoảng 36.000 doanh nghiệp thủy sản, nhưng gần một nửa đã ngừng hoạt động, trong đó 80% là doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, sức chống chịu thấp trước biến động thị trường.

Mặc dù số lượng doanh nghiệp tăng khoảng 15% hậu COVID và sau các hiệp định thương mại, nền tảng tài chính yếu vẫn khiến hơn một nửa doanh nghiệp đối mặt rủi ro cao, ảnh hưởng đến khả năng vay vốn, đầu tư công nghệ và cập nhật luật xuất khẩu.

Rủi ro thương mại không chỉ từ thuế quan mà còn từ các rào cản phi thuế quan, như truy xuất nguồn gốc, tiêu chuẩn lao động, an toàn thực phẩm, bảo vệ môi trường, ISG/ESG và các biện pháp bảo hộ tại các thị trường Mỹ, EU, Trung Quốc, Úc. Cá tra và tôm chịu áp lực cao nhất với các vụ kiện chống bán phá giá liên tục và yêu cầu truy xuất nguồn gốc chặt chẽ. Thiếu minh bạch dữ liệu và thông tin đối tác khiến doanh nghiệp dễ bị áp thuế cao hoặc mất cơ hội hợp đồng.

Nhiều doanh nghiệp nhỏ chưa kiểm tra uy tín đối tác hoặc hệ thống kế toán còn lỏng lẻo, dẫn đến rủi ro tài chính và pháp lý. Giải pháp là tận dụng hệ sinh thái dữ liệu toàn cầu, bao gồm mã số định danh doanh nghiệp, thẩm định đối tác, theo dõi rủi ro và tìm kiếm khách hàng, giúp tăng minh bạch, giảm rủi ro và nâng cao khả năng xuất khẩu.

Minh bạch dữ liệu và chuẩn hóa hệ thống xuất khẩu trở thành yếu tố sống còn giúp doanh nghiệp duy trì thị trường

Minh bạch dữ liệu và chuẩn hóa hệ thống xuất khẩu trở thành yếu tố sống còn giúp doanh nghiệp duy trì thị trường

Ông Thịnh khuyến nghị doanh nghiệp ngoài việc cần chuẩn hóa tài chính, thì cần tính chủ động để tăng sức chống chịu trước biến động quốc tế.

“Khi xuất khẩu sang các thị trường quốc tế, doanh nghiệp Việt Nam nên sử dụng các công cụ dữ liệu để nhanh chóng đối chiếu và xác minh thông tin với đối tác. Theo Bộ Công Thương và dữ liệu từ CRIF D&B Việt Nam, chúng tôi có ba giải pháp chính giúp giảm rủi ro nhanh nhất cho doanh nghiệp đó là: xác định và kiểm tra đối tác, chuẩn hóa truy xuất nguồn gốc và đa dạng hóa thị trường xuất khẩu”- ông Thịnh nói.

Để ứng phó, doanh nghiệp thủy sản cần chủ động kiểm tra uy tín đối tác, chuẩn hóa truy xuất nguồn gốc và đa dạng hóa thị trường xuất khẩu. Việc sử dụng dữ liệu minh bạch không chỉ giảm rủi ro thuế mà còn nâng cao uy tín, mở rộng cơ hội trên các thị trường quốc tế khó tính.

Nguyễn Quang/VOV-TP.HCM

Nguồn VOV: https://vov.vn/kinh-te/ho-tro-doanh-nghiep-thuy-san-giam-rui-ro-mo-rong-thi-truong-truoc-rao-can-post1250360.vov