Hổ trong tâm thức người Việt
Trong văn hóa Việt tồn tại 2 quan điểm song song về hổ: đề cao và sùng bái sức mạnh, vẻ đẹp, tài trí của loài hổ hoặc sợ, khinh ghét, bài trừ 'loài mèo lớn' này. Người Việt vừa tôn kính hổ, vừa sợ hổ nên dẫn đến tục thờ hổ.
Hổ trong tâm thức người Việt
Trong can chi thì hổ đứng hàng thứ 3 của 12 con giáp, mang tên Dần. Tháng con hổ là tháng Giêng, đầu xuân, đầu năm mới, tháng mà 3 khí dương (của trời) cân bằng với 3 khí âm (của đất), do đó cũng là tháng mở đầu của con người (Nhân sinh ư dần), vì con người là sự cân bằng giữa trời-đất, con người khỏe mạnh là do sự cân bằng âm-dương, nóng-lạnh từ nội tạng… Tính cách con giáp Dần là tính cách của một năm mạnh mẽ nhất về sức khỏe, sung mãn về làm ăn kinh tế, mở mang về học vấn, công danh. Năm Dần được người xưa coi là năm tốt, sinh được con trai thì càng quý; con gái tuổi Dần thường được coi là cao số và lận đận trong đường tình duyên, vì những cô gái này nóng tính, đanh đá, kiêu căng… như hổ.
Người Việt sùng bái, thờ cúng hổ được thể hiện qua cách gọi tên hổ. Không con vật nào trong 12 con giáp lại có được tên gọi phong phú như loài hổ. Danh xưng cao nhất được dành cho hổ là: Sơn quân chi thần, Sơn quân chúa xứ, Sơn quân mãnh hổ, Sơn lâm chúa tể, Sơn lâm chúa xứ, Sơn lâm đại tướng quân, Sơn quân chúa động, Chúa xứ sơn lâm, Mãnh Hổ, thần Hổ, ông Thầy, ông Cả, Ngài, ông Ba Mươi, Hương quản… Trong dân gian Việt, người ta gọi hổ là: cọp, hùm hoặc danh xưng mang tên ông như ông Hổ, ông Cọp, ông Hùm, ông Kễnh, ông Hầm, ông Ba Mươi, ông Khái, ông Mãnh,... Trong đó, cách gọi rất kính trọng là ông Hổ, ông Ba Mươi. Họ sợ hãi, thờ cúng, kỵ húy hổ đến nỗi không dám gọi thẳng tên, mà chỉ dám gọi chệch đi là ông Kễnh, ông Ba Mươi hay ông Hùm vì sợ ngài giận!
Người có tính cách anh hùng, hảo hán, mạnh mẽ như… hổ thì được gọi là hùm xám, cọp xám, hay hổ xám: thủ lĩnh nghĩa quân Hoàng Hoa Thám được tôn xưng là Hùm xám Yên Thế; cao thủ trong làng võ Việt như võ sư Mã Thanh Long có biệt danh là Hùm xám Hòa Hưng, võ sư Huỳnh Long Hổ là Hùm xám Quảng Ngãi, võ sư Hà Trọng Ngự với tuyệt kỹ quyền ba chân hổ được tôn xưng là Hùm xám miền Nam, võ sư Hà Trọng Sơn (Bình Định) có biệt danh là Hùm xám miền Trung còn Hùm xám Cao nguyên là biệt danh của võ sư Lý Xuân Hỷ.
Như vậy, tục thờ hổ bắt nguồn khi con người còn sống săn bắt, hái lượm hoặc giai đoạn đầu của cuộc sống nông nghiệp. Lúc này, hổ chính là sức mạnh thiên nhiên vừa gần gũi, vừa là tai họa đối với con người. Hổ là hiện thân và đồng nhất với các thế lực tự nhiên chốn rừng thiêng nước độc, lam sơn chướng khí, là trở ngại thử thách con người. Con người thờ hổ để cầu an. Hổ đóng vai trò là thần giám hộ, thần hộ mệnh, thần hộ môn… của quốc gia, của cộng đồng làng xã và của cả gia đình. Nhiều gia đình có tục thờ ông Ba Mươi như một cách để cầu công danh, mang lại sự may mắn.
Không chỉ người Việt, một số đồng bào dân tộc thiểu số ở Việt Nam cũng có tục thờ hổ. Người dân địa phương ở Trà Bồng (Quảng Ngãi) lập am thờ bạch hổ sơn quân hay còn gọi là ông hổ đi tu, như là tùy tướng thân cận nhất của Thiên Y A Na, cùng bà xung trận, kết liễu rồi mang đầu giặc treo ở một cây đa trong vùng. Khi hết giặc, Bạch Hổ sơn quân vào núi đi tu, được người dân lập miếu thờ riêng. Người Cor coi cọp là “con chó của nhà trời” một cách kính trọng. Người Jrai thường có “thỏa ước” sống chung hòa bình với cọp, tôn trọng lẫn nhau. Dân làng có thể giết chết một con hổ nếu nó bắt trâu bò của họ. Họ biện bạch với hổ: “Món nợ của mày đã hết. Mày bắt của ta một con trâu nên ta giết mày. Từ nay đừng tấn công ta nữa” và cúng cho hổ một chiếc vòng. Hàng năm, người Jrai cúng giao ước với thần Hổ (yang romung) qua bài khấn: “Tôi khấn, tôi cầu/tôi gọi ngài Ji ngài Jung, đây là rượu ghè và gà của ngươi/và tất cả các rừng tôi thường đi/Hãy đến ăn thịt này, uống rượu này/phù hộ cho chúng tôi/không đau ốm, không sốt/phù hộ cho chúng tôi, bảo vệ cho chúng tôi”.
Biểu hiện của tín ngưỡng thờ cọp thường thấy nhất là dưới dạng miếu nhỏ hoặc các bình phong ở đình làng. Trên các bình phong đắp nổi chúa sơn lâm (thường màu vàng), từ trên núi bước xuống trông rất oai vệ. Trước một số đình có tượng hổ, lại có miếu thờ bạch hổ (cọp trắng). Dân gian quan niệm bạch hổ là “hổ thần”, không bao giờ ăn thịt người. Ở chùa Thập Tháp (Bình Định) có ngôi miếu thờ con hổ đã tu hành không hại người. Cọp mỗi ngày đến chùa nghe kinh kệ. Khi chết, bộ xương hổ đặt bên tượng hổ bằng đất thờ trong miếu. Truyền thuyết kể rằng: Vua Lê Thánh Tông nam chinh đánh Chiêm Thành, gặp bạch hổ phủ phục nghênh tiếp nên khi chiến thắng trở về, vua cho lập đền thờ bạch hổ ngay nơi đó, hiện còn ở Thanh Hóa. Hổ trắng còn là biểu tượng của thần chữa bệnh và thần tài, có một thời được các lương y và nhà buôn thờ. Bài vị trong các đình thờ hổ thường ghi hai chữ “bạch hổ”, “sơn quân”. Ngoài việc mô tả chạm trổ đá, gỗ và in hoa văn thần Hổ trên gạch, không ít ở các cổng đền, miếu, bệ thờ, án gian trong gia đình đều chạm khắc hoặc đắp nổi hình hổ phù nhô ra, miệng há to dữ tợn xung quanh răng nanh đâm ra như một cái hang.
Một số tập tục gắn với việc sùng bái hổ
Có nơi vào đêm 30 Tết, người ta thường dùng vôi trắng vẽ hình hổ phục ở 4 góc sân nhà nhằm trừ đuổi tà ma, quỷ quái, cầu cho mọi người được khỏe mạnh, bình an, chăn nuôi, trồng trọt đều hanh thông, phát đạt. Trong ngày tất niên, người ta thường làm hai mâm cỗ, một mâm cúng gia tiên trong nhà và một mâm cúng thiên địa ở sân trước nhà, trong đó một số cộng đồng lấy con hổ là vật thờ, gọi là cúng ông Ba Mươi. Cúng thần Hổ vào những ngày sóc vọng hoặc khi trong nhà có công việc gì cáo với gia tiên.
Vị thế tâm linh của hổ còn thể hiện thông qua hình thức mê tín là bùa chú: đó là bùa hộ mệnh vẽ hình hổ bảo vệ con người, xua đuổi tà ma, con hổ lúc này hiện thân là phúc thần; hay bùa ngải được sử dụng thành phần có nguồn gốc từ hổ, là loại bùa hại người, bây giờ hổ hiện thân là ác thú hại người. Ở Nam Bộ, nhiều nhà dùng bùa nêu ông cọp dán trước cửa nhà, ở cửa chuồng trâu bò để bảo vệ gia súc. Ở miền Bắc, đồ hình bát quái và thần Hổ là đồ án chính của linh phù trấn trạch là một loại bùa trấn trạch phổ biến, in hình hổ mộc bản trên nền giấy đỏ.
Việc thờ hổ trong không gian gia đình thường là thờ thần Bạch hổ hoặc thần Ngũ hổ, tức là năm thần hổ năm sắc. Tranh hổ thường treo ở bàn thờ dành riêng cho ông Ba Mươi, dưới ban thờ thần thánh hoặc thờ Phật.
Tranh thờ một ông cọp vẽ hình một con cọp da vằn vện trong tư thế ngồi ngang, mặt quay ra ngoài, hai chân trước chống lên, đuôi ngoắc lên cao, dưới chót đuôi có lá cờ, trên chót đuôi có hình mặt trời, xung quanh là những đám mây.
Tranh ngũ hổ được biết đến nhiều nhất là tranh ngũ hổ của phố Hàng Trống (Hà Nội), ngoài ra còn có tranh Đông Hồ (Bắc Ninh). Tranh ngũ hổ vẽ 5 con hổ, 4 con bốn góc đối xứng nhau và 1 con ở giữa. Mỗi con có một dáng vẻ riêng. Màu sắc trong tranh ngũ hổ là một thế giới hòa sắc, lộng lẫy, đầy vẻ uy linh, với 5 màu: xanh, đỏ, trắng, vàng, đen trên 5 con cọp, tượng trưng cho ngũ hành với ý nghĩa: hoàng hổ tướng quân (hổ màu vàng) trấn nhậm trung khu (hành thổ); hắc hổ tướng quân (hổ màu đen) trấn nhậm bắc khu (hành thủy); bạch hổ tướng quân (hổ màu trắng) trấn nhậm tây khu (hành kim); xích hổ tướng quân (hổ màu đỏ) trấn nhậm nam khu (hành hỏa); thanh hổ tướng quân (hổ màu xanh) trấn nhậm đông khu (hành mộc). Trên đầu hổ vàng, dưới mặt trời đỏ rực rỡ có 7 chấm trắng là hình tượng của chòm đại hùng tinh. Chân hổ vàng trấn lên một miếng phù có ghi “pháp đại uy nỗ”. Hai bên hổ vàng: bên phải có 5 thanh kiếm, bên trái có 5 lá cờ lệnh, thể hiện sức mạnh của thiên nhiên trong quy luật vận động của vũ trụ và sự tương tác với trái đất. Hỗ trợ cho khí phách của ngũ hổ là những đám mây vần vũ huyền ảo được vẽ ở phía trên. Nhìn 5 “ông Ba Mươi” gợi cho người xem cảm giác về một lá bùa chú hay thể hiện sự sum vầy đầy đủ, vì thế treo tranh ngũ hổ cảm thấy yên tâm vì được che chở.
Ngày xuân, tâm hồn thư thái, bên đào thắm, mai vàng, với chén rượu nồng, ngắm bức tranh Tết-tranh hổ, con người càng thêm sảng khoái, giàu sức sống, như thông điệp cầu chúc tốt đẹp cho mình và cho cộng đồng, là lối ứng xử giàu tính nhân văn của người Việt xưa. Tục thờ hổ là nét tín ngưỡng tâm linh có giá trị lịch sử, văn hóa, là sản phẩm tinh thần gắn liền với quá trình định cư và cộng cư của người Việt, với sự phát triển của một vùng đất, một quốc gia, thể hiện lòng biết ơn của họ trước việc thiên nhiên đã dung chứa con người từ những ngày đầu mở đất, dựng làng, lập nghiệp, cầu mong mọi điều an yên!
Nguồn Gia Lai: http://baogialai.com.vn/channel/12525/202202/ho-trong-tam-thuc-nguoi-viet-5765751/