Hòa bình để viết tiếp khát vọng cha anh
Những bức thư, cuốn nhật ký ở những câu chuyện trước đã cho chúng ta hình dung phần nào về những người đã sống một cuộc đời rất đẹp trên chiến trường. Để hôm nay, biết bao người lính đã gác lại tình riêng, xông pha nơi đầu sóng ngọn gió viết tiếp những khát vọng của cha anh với gia đình, quê hương, Tổ quốc và Nhân dân, làm sâu dày thêm mạch nguồn lý tưởng cách mạng của Bộ đội Cụ Hồ.
Từ hải đảo...

Thiếu tá Lê Hùng Ba tranh thủ gọi điện thoại cho gia đình từ Nhà giàn DK1, Tiểu đoàn DK1, Vùng 2 Hải quân.
Sinh ra và lớn lên ở vùng quê thuần nông Quảng Bình (huyện Quảng Xương cũ), Thiếu tá Lê Hùng Ba mang theo sự rắn rỏi của người con xứ biển, xứ đồng đến nơi đầu sóng của Tổ quốc. Gần 2 năm công tác ở nhà giàn DK1 - cũng là lần thứ hai anh được phân công, điều động đến nơi này, anh đã quen với cảm giác chênh vênh giữa trùng khơi, nơi bốn bề chỉ có gió, sóng và bầu trời mênh mông. Ở đó, mỗi ngày trôi qua đều là một cuộc thử thách với bản lĩnh, ý chí và niềm tin của người lính biển.
Những khối thép sừng sững giữa biển khơi, khi nắng rát, khi gió mùa ràn rạt, khi sóng gầm dưới chân, vừa là điểm tựa chiến lược, vừa là nơi thử thách sức chịu đựng của con người. Xa đất liền, xa gia đình, nỗi nhớ nhà với người lính nhà giàn không ồn ào mà lặng sâu.
Trong màn hình điện thoại nhỏ bé, giữa tín hiệu chập chờn nơi đầu sóng, là những câu chữ ngắn gọn mà nhẹ nhàng, ân cần: “3 mẹ con đã ăn cơm chưa? Nay trời vào mùa lạnh rồi, mấy mẹ con ở nhà nhớ mặc đủ ấm nhé. Anh hai đi học về phải giúp đỡ mẹ việc nhà và trông em giúp mẹ nhé con...” .
Thiếu tá Ba có vợ và hai con nhỏ đang sinh sống ở Đà Nẵng, bố mẹ già đã gần 70 tuổi vẫn ở quê nhà Quảng Bình. Vợ anh là giáo viên, một mình vừa đi dạy, vừa cáng đáng việc nhà, chăm sóc hai con còn thơ dại. Anh thấu hiểu những vất vả âm thầm ấy, càng thấu hiểu hơn giá trị của sự hy sinh phía sau hậu phương lặng lẽ. Mỗi lần nhớ nhà, trong giờ nghỉ, anh nép bên lan can thép lộng gió, chiếc điện thoại áp sát tai để át tiếng sóng, gọi về cho gia đình.
Trong màn hình điện thoại nhỏ bé, giữa tín hiệu chập chờn nơi đầu sóng, là những câu chữ ngắn gọn mà nhẹ nhàng, ân cần: “3 mẹ con đã ăn cơm chưa? Nay trời vào mùa lạnh rồi, mấy mẹ con ở nhà nhớ mặc đủ ấm nhé. Anh hai đi học về phải giúp đỡ mẹ việc nhà và trông em giúp mẹ nhé con...” .

Anh vẫn nhớ khoảng thời gian mấy năm công tác trên tàu hải quân, hàng tháng lênh đênh trên biển, không có sóng điện thoại, không cuộc gọi về gia đình... Những lúc đó mới thấm thía nỗi nhớ nhà, càng trân quý thêm những giây phút được trò chuyện, động viên nhau trong cuộc sống. Có khi, tin nhắn được gửi đi vào lúc nửa đêm, vào những ngày biển động. Sau giờ huấn luyện, anh tranh thủ nhắn vội: “Ngoài này gió mạnh, sóng cao nhưng nhà giàn vẫn vững. Em và các con ngủ ngon...! Những dòng chữ không hoa mỹ, nhưng phía sau là cả một nỗi nhớ được nén chặt, là sự sẻ chia thầm lặng của người chồng, người cha đang cùng đồng đội bảo vệ giọt máu của Tổ quốc giữa trùng khơi.
"Giữ nhà giàn là giữ biển, giữ biển là giữ nhà”. Với thiếu tá Ba, lý tưởng của người lính không nằm ở những lời hoa mỹ, mà ở sự kiên trì với niềm tin giản dị rằng phía sau mình là gia đình, là quê hương.
Thiếu tá Ba hiểu rõ, công tác trên nhà giàn không chỉ là nhiệm vụ quân sự thuần túy mà còn là trách nhiệm với lịch sử, với truyền thống của quê hương anh hùng. “Giữ nhà giàn là giữ biển, giữ biển là giữ nhà”, câu nói mộc mạc ấy được Thiếu tá Ba nhắc lại như một lẽ tự nhiên. Với anh, lý tưởng của người lính không nằm ở những lời hoa mỹ, mà ở sự kiên trì với niềm tin giản dị rằng phía sau mình là gia đình, là quê hương.
Trung tá Trịnh Văn Nghị, Chính trị viên phó Tiểu đoàn DK1 Vùng 2 Hải quân chia sẻ: Với những người lính công tác trên nhà giàn, giữa thời công nghệ số song, việc liên lạc với đất liền vẫn còn nhiều hạn chế. Hiện nay mới chỉ có 4 nhà giàn có kết nối mạng internet, còn lại 11 nhà giàn vẫn phải dùng điện thoại thông thường. Hy vọng, thời gian tới, cấp trên quan tâm, nâng cấp chất lượng mạng internet cho toàn bộ các nhà giàn. Với tinh thần “còn người, còn nhà giàn, những người lính tiểu đoàn DK1 luôn nỗ lực hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao.
Đến nơi phên dậu...
Sinh ra và lớn lên tại huyện miền núi Lang Chánh cũ, năm 2003 chàng trai Đào Nguyên Túc lên đường nhập ngũ. Năm 2023, anh được điều động về công tác tại Đồn Biên phòng Tam Chung (đóng tại xã biên giới Tam Chung, tỉnh Thanh Hóa).
Quá trình cắm bản, gắn bó với bà con, Thiếu tá Đào Nguyên Túc nhận thấy một trong những căn nguyên khiến bà con dân tộc mình lạc hậu, nghèo đói là do thiếu cái chữ. Điều đó thôi thúc anh tham mưu với cấp ủy, chỉ huy Đồn Biên phòng Tam Chung phối hợp chính quyền xã mở các lớp học xóa mù chữ.

Thiếu tá Đào Nguyên Túc trong vai trò thầy giáo dạy chữ cho bà con.
Chia sẻ về những khó khăn thời gian đầu cùng đồng đội đi vận động bà con đến lớp học, Thiếu tá Đào Nguyên Túc cho biết: "Đa phần người dân không biết chữ ở các bản đều là lao động chính trong gia đình. Có không ít những câu trả lời rất vô tư, thật thà của bà con khiến tôi day dứt, như là: Cái chữ có đổi được xe máy không? Có đổi được gạo không?.
Từ đó, tôi phải nghiên cứu cho mình cách tuyên truyền đến bà con gần gũi, dễ hiểu và sát thực tế, rằng bây giờ, mọi nơi đều đổi mới rồi, đồng bào mình cũng cần phải biết cái chữ để không phải lo ăn từng ngày, để có điều kiện đủ ăn, đủ mặc, để trồng cây ngô, cây lúa không sâu bệnh, đạt năng suất cao, nuôi con trâu, con bò, con lợn nhanh lớn, để nuôi dạy con cái tốt. Biết chữ để không bị kẻ xấu lừa gạt”.

Có những người anh giảng bằng tiếng phổ thông, nhưng có nhiều trường hợp anh phải giải thích bằng cả tiếng đồng bào. Như đã thành nếp, các học viên đều nêu cao tính tự giác, nghiêm túc trong quá trình học. Cứ thế, từ sự tận tụy, tình cảm gắn bó, với sự chung tay của đồng chí, đồng đội và các ngành, các cấp, chính quyền địa phương, nói đúng cái lý, hợp cái tình, “mưa dầm thấm sâu”..., lớp học của Đồn Biên phòng Tam Chung hình thành, bà con rủ nhau đến để học cái chữ với thầy Túc.
Lớp học của tôi là một lớp học đặc biệt... Lớp chúng tôi có 45 học viên, người cao tuổi nhất là 50 tuổi, nhỏ nhất là 10 tuổi, trong lớp có 3 bạn nam và 42 bạn nữ, 100% là người dân tộc Mông và 100% đều là hộ nghèo... Lớp mở vào đúng mùa thu hoạch sắn của bà con mà lại vào mùa đông giá rét. Nhưng mọi người vẫn sắp xếp thời gian đến thật sớm...
Thiếu tá Đào Nguyên Túc

Một “biên giới của lòng người” đang dần được xây nên vững chãi, bền bỉ như chính những người lính quân hàm xanh thầm lặng ngày đêm bám bản, bám dân. Trong dòng nhật ký về lớp học xóa mù đầu tiên của mình Thiếu tá Đào Nguyên Túc viết: “Lớp học của tôi là một lớp học đặc biệt... Lớp chúng tôi có 45 học viên, người cao tuổi nhất là 50 tuổi, nhỏ nhất là 10 tuổi, trong lớp có 3 bạn nam và 42 bạn nữ, 100% là người dân tộc Mông và 100% đều là hộ nghèo... Lớp mở vào đúng mùa thu hoạch sắn của bà con mà lại vào mùa đông giá rét. Nhưng mọi người vẫn sắp xếp thời gian đến thật sớm...”.

“Phụng sự tổ quốc, phục vụ Nhân dân”, “Tất cả vì bình yên cho biên cương Tổ quốc” - với những chiến sĩ quân hàm xanh, đó là mệnh lệnh của trái tim người lính, là lẽ sống, lý tưởng và văn hóa Biên phòng!” - Thiếu tá Đào Nguyên Túc nói với niềm tự hào.
Có những chàng trai mới đây vừa viết những lá đơn tình nguyện lên đường nhập ngũ, với những dòng như: "Được đứng trong hàng ngũ quân đội nhân dân là niềm tự hào lớn nhất của tuổi trẻ... Đó không chỉ là trách nhiệm của một công dân, mà còn là bổn phận của một Đảng viên trẻ phải dám đi đầu, gánh vác, sẵn sàng cống hiến cho Tổ quốc.
Bởi thế, sẽ có thêm nhiều câu chuyện nữa, thật giản dị mà cao đẹp được viết bởi những người lính. Chúng tôi xin dừng mạch bài tại đây, với sự tri ân và niềm tự hào sâu sắc về Quân đội Nhân dân Việt Nam anh hùng!
Nguồn Thanh Hóa: http://baothanhhoa.vn/hoa-binh-de-viet-tiep-khat-vong-cha-anh-272480.htm











