Hoàn thiện khung pháp lý và đạo đức khi sử dụng trí tuệ nhân tạo

HNN.VN - Ngày 21/11, trong khuôn khổ chương trình Kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XV, các đại biểu thảo luận tại tổ về dự án Luật Trí tuệ nhân tạo (AI).

Đoàn ĐBQH TP. Huế tham gia thảo luận tại tổ 6 cùng đoàn Lạng Sơn và Đồng Nai. UVTW Đảng, Chủ tịch HĐND, Trưởng đoàn ĐBQH TP. Huế Lê Trường Lưu điều hành phiên làm việc.

 UVTW Đảng, Chủ tịch HĐND, Trưởng đoàn ĐBQH TP. Huế Lê Trường Lưu điều hành buổi thảo luận ở tổ 6. Ảnh: Đoàn ĐBQH thành phố

UVTW Đảng, Chủ tịch HĐND, Trưởng đoàn ĐBQH TP. Huế Lê Trường Lưu điều hành buổi thảo luận ở tổ 6. Ảnh: Đoàn ĐBQH thành phố

Tiềm năng lớn, thách thức không nhỏ

Phát biểu tại tổ, đại biểu Phạm Như Hiệp (Đoàn ĐBQH TP. Huế) cho biết ngành y tế là một trong những lĩnh vực tiếp cận và ứng dụng AI sớm nhất. Từ hơn 20 năm trước, kỹ thuật phẫu thuật từ xa đã được triển khai thành công khi bác sĩ ở Paris điều khiển robot mổ cho bệnh nhân tại New York.

Theo đại biểu Phạm Như Hiệp, bước tiến lớn nhất hiện nay là các ca phẫu thuật nội soi hoàn toàn do máy móc và AI thực hiện, không cần bác sĩ trực tiếp điều khiển. “Một số kỹ thuật ở Việt Nam đã bắt đầu tiếp cận xu hướng này. Nếu những ca mổ thông thường được AI đảm nhiệm, có khi nghề bác sĩ khéo cũng phải cạnh tranh với máy móc”, ông Hiệp nói vui.

Tại nhiều bệnh viện, trong đó có Bệnh viện Trung ương Huế, nhiều loại phim chẩn đoán như X-quang phổi, CT Scanner, phim sọ não… đã được AI đọc và trả kết quả. Tuy nhiên, bác sĩ chẩn đoán hình ảnh vẫn phải kiểm tra, xác thực và ký duyệt vì AI mới đóng vai trò “trợ lý”, chưa thể thay thế hoàn toàn con người. Những sai lệch khi AI đọc phim cũng cần được bác sĩ hiệu chỉnh để tiếp tục “dạy” hệ thống - nguyên tắc cốt lõi của học máy.

Đại biểu Phạm Như Hiệp đồng thời nêu thực tế mới trong nghiên cứu khoa học, khi AI có thể tạo ra luận án, luận văn “trong vòng một ngày”, đầy đủ chương mục và phân tích. Điều này đặt ra thách thức lớn về liêm chính khoa học, nguy cơ đạo văn, đòi hỏi luật cần quy định cơ chế kiểm soát, định danh và xử lý phù hợp.

Góp ý cho Điều 13 dự thảo luật, ông Hiệp nhấn mạnh cần xác định rõ trách nhiệm của nhà cung cấp AI khi hệ thống gây ra sự cố hoặc vi phạm pháp luật. Ông Hiệp dẫn chứng mô hình taxi tự động ở Mỹ, nơi 20 - 30% phương tiện đã hoạt động bằng hệ thống cảm biến. Khi xảy ra tai nạn, việc xác định lỗi rất phức tạp. “Một số nước quy định rõ: Nhà sản xuất và đơn vị quản lý hệ thống phải chịu trách nhiệm nếu AI hoạt động sai”, ông Hiệp nói.

Đại biểu Phạm Như Hiệp nêu ý kiến về ứng dụng AI trong lĩnh vực y tế. Ảnh: Đoàn ĐBQH thành phố

Đại biểu Phạm Như Hiệp nêu ý kiến về ứng dụng AI trong lĩnh vực y tế. Ảnh: Đoàn ĐBQH thành phố

Giám đốc Bệnh viện Trung ương Huế Phạm Như Hiệp cũng lưu ý nhiều quốc gia đã xây dựng khái niệm “đạo đức AI”, xác định rõ việc AI được làm và không được làm, nhằm ngăn nguy cơ hệ thống tự học, tự nâng cấp và vượt ngoài kiểm soát.

Theo ông Hiệp, dự thảo luật cần tiếp cận sâu hơn các vấn đề này, bảo đảm dữ liệu đầu vào, hệ thống vận hành và trách nhiệm của các chủ thể phải nằm trong khuôn khổ pháp luật và chuẩn mực đạo đức.

Cần cơ chế giám sát và trách nhiệm rõ ràng trong vận hành AI

Tham gia thảo luận, Phó Trưởng đoàn ĐBQH TP. Huế Nguyễn Thị Sửu nhấn mạnh việc ứng dụng AI đã trở nên phổ biến trong đời sống. “Người dân dù không được đào tạo chuyên sâu vẫn sử dụng khá thành thạo các ứng dụng AI. Vấn đề không còn là có công nghệ hay không, mà là sử dụng như thế nào cho hiệu quả”, bà Sửu nói.

Góp ý dự thảo luật, đại biểu Nguyễn Thị Sửu nêu hai nhóm vấn đề lớn. Thứ nhất là về hạ tầng và nguồn lực tại các điều từ 17 đến 26. Bà đề nghị bổ sung kế hoạch triển khai cụ thể đối với hạ tầng trí tuệ nhân tạo quốc gia, gồm lộ trình, mốc thời gian, trách nhiệm của từng bộ, ngành, địa phương và cơ chế giám sát.

Về phát triển nhân lực (Điều 24), bà cho rằng dự thảo chưa có cơ chế khuyến khích thiết thực cho các cơ sở đào tạo. Đại biểu đề nghị hỗ trợ kinh phí, công nhận tiêu chuẩn đào tạo quốc tế; mở rộng học bổng và chương trình liên kết đào tạo với doanh nghiệp, viện nghiên cứu trong và ngoài nước.

Đối với Điều 26 về hỗ trợ doanh nghiệp, bà Sửu lưu ý dự thảo chưa phân biệt giữa doanh nghiệp lớn với doanh nghiệp nhỏ và vừa khi tiếp cận quỹ phát triển AI quốc gia. Bà đề nghị làm rõ quyền lợi và trách nhiệm của từng nhóm doanh nghiệp để bảo đảm công bằng, minh bạch

Nhóm vấn đề thứ hai là khung đạo đức trí tuệ nhân tạo quốc gia (Điều 27). Bà Sửu đánh giá dự thảo đã đề cập nhưng vẫn còn những khoảng trống quan trọng. Theo bà Sửu, dự thảo thiếu cơ chế giám sát, đánh giá và xử lý vi phạm đạo đức AI. “Không có cơ chế xử lý thì quy định đạo đức chỉ mang tính định hướng, không đủ sức ràng buộc pháp lý”, đại biểu Nguyễn Thị Sửu nhấn mạnh.

Bên cạnh đó, khái niệm “đạo đức AI” chưa được định nghĩa rõ ràng, dễ gây cách hiểu không thống nhất; đồng thời chưa quy định trách nhiệm cụ thể của các chủ thể tham gia vào vòng đời hệ thống AI, từ phát triển, cung cấp đến triển khai và sử dụng.

Từ các phân tích trên, bà Sửu đề nghị sửa đổi Điều 27 theo hướng: thay từ “rà soát” bằng “công khai” ở khoản 2 để tăng minh bạch; đồng thời bổ sung các khoản 5, 6, 7, 8 nhằm làm rõ cơ chế vận hành và giám sát khung đạo đức AI.

Cụ thể, bà Sửu đề xuất thành lập Cơ quan đạo đức AI quốc gia (khoản 5) do Thủ tướng quyết định, nhằm giám sát và xử lý các vi phạm liên quan đến AI có rủi ro cao. Khoản 6 yêu cầu các tổ chức, cá nhân phát triển hoặc triển khai hệ thống AI rủi ro cao phải bắt buộc tuân thủ khung đạo đức quốc gia. Khoản 7 xác lập giá trị ràng buộc pháp lý của khung đạo đức AI, quy định chế tài xử phạt từ hành chính đến hình sự tùy mức độ. Khoản 8 khuyến khích sự tham gia của các tổ chức xã hội, học thuật, doanh nghiệp và chuyên gia trong xây dựng và đánh giá đạo đức AI.

Theo đại biểu Nguyễn Thị Sửu, việc hoàn thiện khung đạo đức AI là cần thiết để công nghệ phát triển lành mạnh, nhưng chỉ hiệu quả khi đi kèm cơ chế giám sát và xử lý vi phạm rõ ràng, minh bạch và khả thi.

Lê Thọ

Nguồn Thừa Thiên Huế: https://huengaynay.vn/chinh-tri-xa-hoi/theo-dong-thoi-su/hoan-thien-khung-phap-ly-va-dao-duc-khi-su-dung-tri-tue-nhan-tao-160197.html