Lo ngại nhiều hồ chứa vận hành riêng, chưa có phương án ứng phó khẩn cấp
Cả nước hiện chỉ có 9% số hồ thủy lợi được kiểm định an toàn đập, 411 hồ chứa có bản đồ ngập lụt hạ du. Ở nhóm hồ chứa vừa và nhỏ do cấp xã quản lý, chỉ có 30% số hồ có phương án ứng phó với tình huống khẩn cấp, 51% số hồ có phương án bảo vệ, gần 70% chưa có quy trình vận hành...
Tại diễn đàn “Chuyển đổi số, khoa học công nghệ trong vận hành đập, hồ chứa nước” do Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi phối hợp với Báo Nông nghiệp và Môi trường tổ chức trong ngày 21/11, ông Phan Tiến An, Trưởng Phòng An toàn hồ đập và hồ chứa nước (Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi, Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho biết, cả nước hiện có khoảng 7.315 đập, hồ chứa thủy lợi (trong đó có 592 đập dâng có chiều cao trên 5m và 6.723 hồ chứa thủy lợi) với tổng dung tích trữ khoảng 15 tỷ m³, tạo nguồn nước tưới cho gần 1,1 triệu ha đất nông nghiệp và cấp khoảng 1,5 tỷ m³ nước cho sinh hoạt, công nghiệp cũng như ngành kinh tế khác.

Toàn cảnh diễn đàn “Chuyển đổi số, khoa học công nghệ trong vận hành đập, hồ chứa nước”
"Công tác quản lý và vận hành đập, hồ chứa đang đứng trước áp lực mới khi thời gian qua, biến đổi khí hậu diễn biến phức tạp, gia tăng mưa lũ cực đoan, trái quy luật đã gây thiệt hại lớn về người và tài sản, đe dọa đến sự an toàn của nhiều hồ, đập - nhất là các hồ chứa đã xây dựng từ lâu. Thế nhưng, đằng sau đó là hàng loạt khó khăn kéo dài, đặc biệt ở nhóm hồ vừa và nhỏ do địa phương quản lý. Tỷ lệ thực hiện các yêu cầu bắt buộc về an toàn đập vẫn rất thấp: chỉ 30% hồ có phương án ứng phó khẩn cấp, 9% được kiểm định an toàn và chỉ 19% lắp thiết bị quan trắc. Nhiều hồ chưa có quy trình vận hành hoặc mốc bảo vệ, dẫn đến nguy cơ mất an toàn khi mưa lũ đến bất ngờ", ông An chia sẻ khó khăn.
Theo Trưởng Phòng An toàn hồ đập và hồ chứa nước, thách thức lớn nhất hiện nay là thiếu dữ liệu kỹ thuật đầy đủ và hệ thống công nghệ đồng bộ. Cơ sở dữ liệu hồ chứa của Bộ được xây dựng từ năm 2016 nhưng mới khoảng 900 hồ có thông số đầy đủ. Hầu hết các địa phương vẫn quản lý thủ công bằng Excel hoặc tài liệu rời rạc; dữ liệu không được cập nhật, không liên thông, khiến việc tổng hợp phục vụ chỉ đạo gặp rất nhiều khó khăn. Hệ thống quan trắc khí tượng thủy văn chuyên dùng còn thiếu và lạc hậu; nhiều hồ thiếu trạm mưa trên toàn lưu vực, số liệu quan trắc không ổn định.

Ông Phan Tiến An, Trưởng Phòng An toàn hồ đập và hồ chứa nước (Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi, Bộ Nông nghiệp và Môi trường)
Trong khi đó, mưa lũ những năm gần đây diễn biến trái quy luật, bão xuất hiện dồn dập. Không gian thoát lũ bị thu hẹp bởi đô thị hóa nhanh, hạ tầng tiêu thoát chưa theo kịp. Phối hợp vận hành liên hồ vẫn là “điểm mù” lớn: hồ thủy điện và thủy lợi chia sẻ dữ liệu hạn chế, chưa có cơ chế điều phối thống nhất theo lưu vực. Quy trình vận hành nhiều hồ đã lạc hậu nhưng chưa được cập nhật vì thiếu công cụ, thiếu dữ liệu thời gian thực.
Khả năng tiêu thoát nước và chống ngập của nhiều vùng hạ du đang vượt ngưỡng chịu đựng, trong khi hệ thống cảnh báo ở các hồ nhỏ vẫn chủ yếu thủ công. Hạ tầng công nghệ thông tin không đủ mạnh để xử lý dữ liệu lớn; nguồn lực đầu tư quá hạn chế, mới đáp ứng khoảng 11,8% nhu cầu bảo trì và chủ yếu dùng để sửa chữa công trình, không có kinh phí cho công nghệ.
Để giải quyết những bất cập này, ông An cho rằng cần thúc đẩy mạnh mẽ chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ trong toàn bộ chuỗi quản lý hồ chứa. Trước hết là hoàn thiện thể chế, sửa đổi các quy định pháp lý, ban hành tiêu chuẩn chung cho cơ sở dữ liệu, quan trắc và phần mềm vận hành. Cơ sở dữ liệu ngành phải được chuẩn hóa và vận hành theo nguyên tắc dùng chung, cho phép địa phương dùng phần mềm riêng nhưng bắt buộc kết nối qua API chuẩn.
Song song đó, cần đầu tư hoặc thuê dịch vụ quan trắc hiện đại, xây dựng hệ thống cảnh báo tự động, nâng cao năng lực cán bộ trong phân tích dữ liệu và vận hành công nghệ mới. Việc bổ sung định mức kinh tế - kỹ thuật cho đầu tư IoT, phần mềm giám sát, AI và điện toán đám mây sẽ tạo cơ sở để các địa phương lập dự toán và triển khai thống nhất hơn.
Ông An khẳng định: "Khi dữ liệu được chuẩn hóa, hệ thống quan trắc đầy đủ và công nghệ hỗ trợ ra quyết định được áp dụng rộng rãi, công tác vận hành hồ chứa sẽ an toàn hơn, kịp thời hơn và đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ biến đổi khí hậu ngày càng khắc nghiệt".
Gắn mã định danh cho từng công trình thủy lợi
Theo ông Đặng Duy Hiển, Phó Cục trưởng Cục Chuyển đổi số (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), trong kỷ nguyên số, việc ứng dụng công nghệ thông tin không đồng nghĩa với chuyển đổi số, nhưng chuyển đổi số bắt buộc phải dựa trên công nghệ thông tin. Đối với các công trình thủy lợi, hồ đập, mỗi công trình cần được gắn mã định danh riêng để quản lý chặt chẽ, minh bạch.

Ông Đặng Duy Hiển, Phó Cục trưởng Cục Chuyển đổi số (Bộ Nông nghiệp và Môi trường).
Phải có sự quản lý thống nhất về có sở dữ liệu, định mức kinh tế - kỹ thuật
PGS. TS Hoàng Thái Đại, đại diện Hội Thủy lợi Việt Nam nhận định rằng, năng lực của đội ngũ kỹ sư, chuyên gia Việt Nam hoàn toàn không thua kém các nước phát triển. Nhiều cán bộ ngành thủy lợi đã được đào tạo ở nước ngoài, nắm vững công nghệ hiện đại và thậm chí có thể giảng dạy lại cho chính các đối tác quốc tế. Điều này khẳng định Việt Nam có đủ nguồn lực chất lượng cao để làm chủ các công nghệ tính toán, mô phỏng và vận hành trong lĩnh vực tài nguyên nước và hồ đập.

PGS. TS Hoàng Thái Đại, đại diện Hội Thủy lợi Việt Nam
Việc chuyển đổi số phải bắt đầu từ số hóa dữ liệu hiện hữu, đảm bảo các thông tin phải đúng, đủ, sạch, sống và thống nhất, lấy trực tiếp từ nguồn, tránh dữ liệu sai lệch hoặc không chính xác. Khi có dữ liệu chuẩn và đầy đủ, hệ thống quản lý sẽ giúp giám sát, vận hành và điều phối hồ đập theo thời gian thực, hỗ trợ dự báo lũ, cắt giảm lũ hiệu quả cho hạ du, tối ưu khai thác nước tưới, nước sinh hoạt và thủy điện.
Chuyển đổi số còn giúp tăng cường phối hợp liên hồ, liên ngành, nâng cao khả năng ra quyết định dựa trên dữ liệu và giảm thiểu chi phí, rủi ro vận hành. Theo ông Hiển, điều quan trọng là các cơ quan quản lý cùng bắt tay triển khai đồng bộ, đưa công trình thủy lợi bước vào kỷ nguyên số để quản lý thông minh, hiện đại, đáp ứng yêu cầu an toàn và phát triển bền vững.
Ông Đại chia sẻ một trăn trở đã kéo dài nhiều năm: Công tác quản lý nhà nước về tài nguyên nước trước đây bị phân tán giữa nhiều cơ quan, dẫn đến chồng chéo và thiếu thống nhất. Việc sáp nhập và kiện toàn mô hình quản lý hiện nay, nhất là khi Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã được hợp nhất, là tín hiệu rất tích cực, vì đây là điều kiện để thống nhất từ chính sách, cơ sở dữ liệu đến hệ thống hạ tầng quan trắc.
Ông nhấn mạnh, công nghệ hiện nay rất phát triển, phần mềm tốt, thiết bị hiện đại, nhưng dữ liệu vẫn là “tài sản cốt lõi” và đang là điểm yếu nhất. Dữ liệu quan trắc, đặc biệt là dữ liệu từ mạng quan trắc KTTV quốc gia và mạng trạm của các công ty thủy lợi, vẫn còn phân tán, chưa được chuẩn hóa hoặc liên thông.
Tình trạng phân bố trạm “nơi dày đặc, nơi thưa thớt”, như đại diện doanh nghiệp đã nêu, là vấn đề nhìn thấy rõ nhưng chưa được xử lý triệt để. Muốn sử dụng công nghệ hiệu quả, theo ông, trước hết phải giải quyết vấn đề dữ liệu và hạ tầng quan trắc.
PGS.TS Hoàng Thái Đại cho rằng, dù thiết bị hay phần mềm tiên tiến đến đâu thì vai trò của quản lý nhà nước vẫn là yếu tố quyết định. Nhà nước phải đứng ra điều phối, thống nhất quản lý tài nguyên nước và hệ thống hồ đập từ Trung ương đến địa phương; ban hành các quy chuẩn, quy trình, định mức kinh tế - kỹ thuật; đồng thời tổ chức đào tạo đội ngũ cán bộ đủ năng lực vận hành công nghệ mới. Đào tạo nhân lực chất lượng cao không chỉ dành cho cơ quan quản lý mà còn cho các doanh nghiệp khai thác công trình thủy lợi và các đơn vị vận hành ở địa phương.
Ông Đại nhắc lại bài học về những xung đột vận hành giữa thủy điện và thủy lợi giai đoạn trước, khi hai ngành hoạt động tách rời, mỗi bên có một mục tiêu. Theo ông, trong bối cảnh mới, khi Bộ Nông nghiệp và Môi trường thống nhất quản lý tài nguyên nước và công trình thủy lợi, cần phối hợp chặt chẽ hơn nữa với Bộ Công Thương và Bộ Xây dựng để xử lý các vấn đề liên ngành. Ông cho rằng chỉ khi có cơ quan điều phối thống nhất, kết hợp với dữ liệu đầy đủ và hạ tầng quan trắc đồng bộ thì các chính sách vận hành liên hồ mới đi vào thực chất.
PGS.TS Hoàng Thái Đại đánh giá cao việc các cơ quan quản lý, địa phương và doanh nghiệp cùng ngồi lại thảo luận. Những hội nghị như thế này, theo ông, giúp “xới lên” vấn đề, nhìn rõ thực trạng hơn và quan trọng nhất là tạo nền tảng để cùng nghiên cứu, cùng đề xuất giải pháp với Bộ và Chính phủ nhằm hoàn thiện công tác quản lý, đảm bảo an toàn đập và vận hành hồ chứa trong thời gian tới.
Cần đổi mới cách vận hành hồ chứa và tăng phối hợp thủy lợi - thủy điện
Ông Nguyễn Tùng Phong, Cục trưởng Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho rằng: "Những đợt mưa lũ dồn dập vừa qua đã bộc lộ nhiều vấn đề cần được đánh giá lại trong cả công tác dự báo lẫn tổ chức vận hành liên hồ. Liệu có nên duy trì mực nước hồ ở mức dâng bình thường như quy trình hiện hành, hay cần hạ thấp hơn để tăng dung tích đón lũ trong bối cảnh thời tiết ngày càng bất thường?".

Ông Nguyễn Tùng Phong, Cục trưởng Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi (Bộ Nông nghiệp và Môi trường)
Theo ông Phong, quyết định mực nước trước lũ phải dựa trên cơ sở khoa học vì nó liên quan trực tiếp đến an toàn công trình, an toàn hạ du và nhu cầu tích nước cho sản xuất. Thực tế các trận lũ gần đây cho thấy khoảng dung tích phòng lũ đang không đủ dư địa như trước.
Nhấn mạnh vai trò của dự báo, ông Phong cho rằng, hiện nhiều đơn vị vẫn phụ thuộc vào các mô hình dự báo quốc tế, trong khi các nhà khoa học đã khuyến cáo cần có mô hình dự báo chuyên dụng cho từng lưu vực hồ chứa. Đây là điều kiện tiên quyết để nâng cao độ chính xác của dự báo trong bối cảnh biến đổi khí hậu làm cho mưa lũ khó lường hơn và dễ vượt ra ngoài các thông số thiết kế cũ.
Đề cập đến dung tích và khả năng phối hợp liên hồ, ông cho biết tổng dung tích của hơn 7.000 hồ thủy lợi chỉ khoảng 15,5 tỷ m³, trong khi nhiều hồ thủy điện có dung tích lớn gấp nhiều lần. Do đó, nếu hệ thống thủy điện tham gia tích cực hơn vào nhiệm vụ phòng chống lũ, hiệu quả bảo vệ hạ du sẽ được tăng lên đáng kể, nhất là trong các trận mưa lớn “lịch sử”.
Ông Phong nhấn mạnh hồ chứa ngày nay là công trình đa mục tiêu: vừa đảm bảo an toàn công trình, an toàn hạ du, vừa duy trì cấp nước cho sản xuất - sinh hoạt và phục vụ phát điện. Vì vậy, phương thức quản lý - vận hành cũng phải mang tính liên ngành, chứ không thể tiếp cận riêng rẽ theo từng lĩnh vực. Ông dẫn ví dụ vận hành hồ trên sông Cầu có thể tác động đến sông Thương, hay điều tiết trên sông Đà ảnh hưởng đến giao thông và sản xuất ở đồng bằng sông Hồng. Điều này cho thấy cần vận hành theo quy mô toàn hệ thống sông, thay vì giới hạn trong một lưu vực nhỏ.
Bàn về định hướng sắp tới, ông Phong cho rằng ngành thủy lợi phải cập nhật cơ sở dữ liệu mưa - lũ, thông số thiết kế và tiêu chuẩn an toàn đập để phù hợp với các giá trị cực đoan mới của thời tiết. Chuyển đổi số không chỉ dừng ở việc số hóa dữ liệu, mà phải giúp ngành giải quyết các bài toán thực tế: dự báo lũ, tính toán dung tích phòng lũ và hỗ trợ ra quyết định theo thời gian thực. Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang tiếp thu các đề xuất của địa phương, như kiến nghị của tỉnh Thái Nguyên về điều chỉnh mực nước dâng bình thường để tăng dung tích phòng lũ. "Sự phối hợp chặt chẽ giữa thủy lợi và thủy điện, cùng việc ứng dụng công nghệ mới và dữ liệu hiện đại, sẽ là nền tảng để bảo đảm an toàn hạ du và phục vụ phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh khí hậu ngày càng cực đoan", ông Phong nhấn mạnh.











