Hoàn thiện quy định về chính sách thuế giá trị gia tăng
Nội dung sửa đổi, bổ sung tại dự thảo Luật liên quan tới quy định đối với: Người nộp thuế; đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng...
Đối tượng nào không chịu thuế giá trị gia tăng?
Chiều 23/4, tại Nhà Quốc hội, tiếp tục Chương trình Phiên họp thứ 32, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về dự án Luật thuế giá trị gia tăng (sửa đổi).
Dự thảo Luật thuế giá trị gia tăng (sửa đổi) dự kiến gồm 4 Chương, 16 Điều. Dự thảo Luật về cơ bản vẫn được kế thừa từ Luật hiện hành nhưng có chỉnh lý, bổ sung cho phù hợp với nội dung chính sách.
Báo cáo tại phiên họp, Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc cho biết cụ thể về nội dung sửa đổi, bổ sung tại dự thảo Luật liên quan tới quy định đối với: Người nộp thuế; đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng; giá tính thuế giá trị gia tăng; thuế suất; khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào; hoàn thuế giá trị gia tăng;…
Trong đó, về đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng, dự thảo Luật vẫn giữ nguyên 26 nhóm hàng hóa, dịch vụ thuộc đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng nhưng đã thu hẹp các hàng hóa, dịch vụ thuộc đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng trong 26 nhóm này (bỏ 12 loại hàng hóa, dịch vụ thuộc đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng gồm:
Phân bón; máy móc, thiết bị chuyên dùng phục vụ cho sản xuất nông nghiệp; tàu đánh bắt xa bờ (Luật thủy sản đã thay tên gọi mới là tàu khai thác thủy sản tại vùng khơi, vùng biển); lưu ký chứng khoán; dịch vụ tổ chức thị trường của sở giao dịch chứng khoán hoặc trung tâm giao dịch chứng khoán; dịch vụ bưu chính công ích; dịch vụ viễn thông công ích; dịch vụ Internet phổ cập theo chương trình của Chính phủ; dịch vụ duy trì vườn thú; dịch vụ duy trì vườn hoa, công viên; dịch vụ duy trì cây xanh đường phố; dịch vụ chiếu sáng công cộng).
Ông Phớc cũng cho biết, Chính phủ đề xuất bỏ Điều quy định về hóa đơn, chứng từ tại dự thảo Luật. Dự thảo Luật thuế giá trị gia tăng đã sửa đổi quy định về ngưỡng doanh thu không chịu thuế giá trị gia tăng theo quy định tại Luật số 31/2013/QH13.
Theo đó, cũng cần bổ sung vào điều khoản thi hành dự thảo Luật thuế giá trị gia tăng để sửa đổi, bổ sung Luật số 71 liên quan đến nội dung về ngưỡng doanh thu chịu thuế thu nhập cá nhân của hộ, cá nhân kinh doanh nhằm đảm bảo thống nhất giữa 2 sắc thuế, thuận lợi trong triển khai.
Ngoài ra, để không gây xáo trộn đối với các hộ kinh doanh nộp thuế theo phương pháp khoán đã được ấn định thuế từ đầu năm, Chính phủ trình Quốc hội quy định mức doanh thu của hộ, cá nhân kinh doanh thuộc đối tượng không chịu thuế có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2026.
Giải quyết các bất cập trong thực tiễn
Trình bày báo cáo thẩm tra sơ bộ dự án luật, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội Lê Quang Mạnh nêu rõ, Thường trực Ủy ban Tài chính, Ngân sách nhất trí về sự cần thiết sửa đổi Luật để giải quyết các bất cập trong thực tiễn cũng như hoàn thiện chính sách thu.
Về mục tiêu, quan điểm và phạm vi các nội dung sửa đổi, đề nghị Chính phủ bám sát các mục tiêu, định hướng đã được xác định trong Chiến lược cải cách hệ thống thuế đến năm 2030 để cân nhắc bổ sung phạm vi các nội dung chính sách được sửa đổi, bảo đảm tính bao quát, tổng thể đối với các nguồn thu, ít nhất là trong trung hạn của hệ thống chính sách thuế giá trị gia tăng.
Về bảo đảm tính rõ ràng, minh bạch của nội dung sửa đổi, bổ sung, đề nghị Chính phủ chỉ đạo rà soát, hoàn thiện nội dung của dự thảo Luật để bảo đảm tính nhất quán giữa nội dung thể hiện trong Báo cáo tổng kết thi hành luật, các quan điểm chỉ đạo trong xây dựng dự án Luật với nội dung sửa đổi thể hiện trong dự thảo Luật.
Bên cạnh đó, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội Lê Quang Mạnh cũng nêu quan điểm của Thường trực Ủy ban đối với một số nội dung cụ thể: Về đối tượng không chịu thuế; về giá tính thuế giá trị gia tăng đối với hoạt động kinh doanh bất động sản; về thời điểm xác định thuế giá trị gia tăng; về thuế suất; về phương pháp tính thuế; về khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào; các trường hợp hoàn thuế;…
Về mức doanh thu bán hàng hóa, dịch vụ không chịu thuế giá trị gia tăng, đề nghị Chính phủ tính toán, cân nhắc các yếu tố liên quan trên bình diện chung của các chính sách hiện hành (như mức giảm trừ gia cảnh của thuế thu nhập cá nhân, chuẩn nghèo đa chiều mới, GDP/đầu người tại thời điểm hiện nay đã tăng hơn 2 lần so với thời điểm năm 2013 khi mức ngưỡng doanh thu 100 triệu đồng được xây dựng,…) để quy định cụ thể mức ngưỡng này trong dự thảo Luật.
Về thời điểm xác định thuế giá trị gia tăng, Thường trực Ủy ban Tài chính, Ngân sách tán thành việc bổ sung quy định về thời điểm xác định thuế giá trị gia tăng để bảo đảm rõ ràng, tránh các vướng mắc phát sinh trong thực thi Luật.
Tuy nhiên, để nhất quán quan điểm các nội dung sửa đổi, bổ sung cần được quy định cụ thể, rõ ràng và thực hiện mục tiêu luật hóa tối đa các nội dung được quy định tại các văn bản dưới Luật, đã thực hiện ổn định, đề nghị Chính phủ rà soát các nội dung liên quan đến quy định về thời điểm xác định thuế giá trị gia tăng đối với một số trường hợp đặc thù.
Trong đó, có hoạt động kinh doanh bất động sản được quy định tại văn bản dưới luật để quy định cụ thể trong dự thảo Luật, không giao Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định….
Kết luận nội dung phiên họp, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải đề nghị Chính phủ tiếp thu ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, ý kiến thẩm tra để tiếp tục hoàn thiện hồ sơ dự án Luật đảm bảo chất lượng để trình Quốc hội.
Tiếp tục rà soát để thể chế hóa đầy đủ chủ trương của Đảng, đáp ứng chiến lược cải cách thuế, đặc biệt lưu ý đến quan điểm sửa đổi, bổ sung các luật về thuế, phí theo nguyên tắc thị trường, phù hợp với thông lệ quốc tế, gắn với cơ cấu lại nguồn thu, mở rộng cơ sở thuế và nâng cao hiệu quả công tác quản lý thuế và áp dụng mức thuế suất hợp lý; định hướng tiến tới cơ bản áp dụng một mức thuế suất và thực hiện tăng thuế theo lộ trình;
Rà soát phạm vi, đối tượng điều chỉnh của dự án Luật để đáp ứng quan điểm, mục tiêu, yêu cầu sửa đổi luật; khắc phục khó khăn, vướng mắc của luật hiện hành, hoàn thiện các quy định, đảm bảo bao quát trong trung hạn chính sách thuế giá trị gia tăng. Cụ thể hóa tối đa trong luật các nội dung đã được kiểm nghiệm và áp dụng ổn định trong thực tiễn, giảm thiểu việc giao Chính phủ, các bộ quy định....