Hoàn thiện quy hoạch dầu khí: Trụ cột bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia
Tại hội thảo 'Điều chỉnh Quy hoạch tổng thể về năng lượng quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050' do Bộ Công Thương tổ chức ngày 11/12, các chuyên gia khẳng định việc hoàn thiện quy hoạch dầu khí không chỉ dừng ở điều chỉnh kỹ thuật, mà là nhiệm vụ chiến lược nhằm giữ ổn định nguồn cung sơ cấp, bảo đảm an ninh năng lượng dài hạn trong bối cảnh tài nguyên suy giảm, thị trường quốc tế biến động và Việt Nam bước vào giai đoạn tái cấu trúc mạnh mẽ theo tinh thần Nghị quyết 70-NQ/TW.
Dầu khí - Nền tảng cốt lõi đảm bảo an ninh năng lượng
Việc điều chỉnh Quy hoạch tổng thể về năng lượng quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến 2050 đang đặt lĩnh vực dầu khí vào tâm điểm. Trong bối cảnh Nghị quyết 70-NQ/TW về bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia vừa được ban hành, hệ thống năng lượng Việt Nam bước vào giai đoạn tái cấu trúc toàn diện, trong đó dầu khí tiếp tục giữ vai trò nguồn cung sơ cấp chủ lực, là nền tảng ổn định cho chuyển dịch xanh và tăng trưởng kinh tế.

Thứ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hoàng Long: Giữ ổn định nguồn cung dầu khí trong nước là nhiệm vụ sống còn để bảo đảm an ninh năng lượng dài hạn.
Phát biểu tại hội thảo, Thứ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hoàng Long cho biết, quá trình điều chỉnh quy hoạch diễn ra trong bối cảnh đặc biệt: Luật Quy hoạch sửa đổi vừa có hiệu lực; Bộ Chính trị ban hành nhiều nghị quyết lớn về năng lượng, dầu khí và khoa học - công nghệ; Quy hoạch điện VIII được điều chỉnh toàn diện; các địa phương tái bố trí không gian phát triển.
Riêng với dầu khí, Kết luận 16-KL/TW về định hướng chiến lược phát triển ngành dầu khí đã xác định rõ: giữ ổn định nguồn cung dầu khí trong nước là nhiệm vụ sống còn để bảo đảm an ninh năng lượng dài hạn. Do đó, phân ngành dầu khí trong quy hoạch tổng thể lần này là cấu phần quan trọng để duy trì tính tự chủ của Việt Nam trong chuỗi giá trị năng lượng.
Cũng tại hội thảo, TS. Nguyễn Văn Tư - Phó Viện trưởng phụ trách Viện Dầu khí Việt Nam (VPI) đã trình bày phương án điều chỉnh quy hoạch phân ngành dầu khí.
Theo VPI, nội dung điều chỉnh quy hoạch bao phủ toàn bộ chuỗi giá trị dầu khí: tìm kiếm - thăm dò - khai thác, công nghiệp khí, chế biến dầu khí, vận chuyển - tồn trữ - phân phối sản phẩm. Đây là các cấu phần cốt lõi đóng vai trò nền tảng trong bảo đảm an ninh năng lượng của Việt Nam.

TS. Nguyễn Văn Tư - Phó Viện trưởng phụ trách VPI trình bày phương án điều chỉnh quy hoạch phân ngành dầu khí
TS. Nguyễn Văn Tư cho biết, giai đoạn 2021-2024, hoạt động tìm kiếm, thăm dò đã đạt một số kết quả tích cực, với 6 phát hiện dầu khí mới, gia tăng trữ lượng 58,68 triệu tấn quy dầu, trung bình đạt 14,7 triệu tấn/năm. Hệ số bù trữ lượng năm 2024 đạt 1,07 lần - mức cao nhất trong 10 năm gần đây. Tuy vậy, kết quả này vẫn chưa đạt mục tiêu được nêu tại Quyết định 893/QĐ-TTg (16-22 triệu tấn/năm).
Đại diện VPI nhấn mạnh, thách thức lớn nhất là quy mô mỏ ngày càng nhỏ và cận biên, chi phí phát triển cao, rủi ro địa chất lớn. Nhiều cấu tạo triển vọng nằm ở vùng nước sâu, xa bờ, đòi hỏi vốn đầu tư lớn nhưng môi trường cạnh tranh và cơ chế ưu đãi chưa đủ mạnh. Từ năm 2018 đến nay, chỉ có một hợp đồng dầu khí mới được ký, trong khi số hợp đồng kết thúc hoặc hoàn trả tiếp tục tăng.
Trước thực trạng này, VPI đề xuất tăng cường điều tra cơ bản, đẩy mạnh khảo sát địa chấn, hoàn thiện cơ chế ưu đãi đặc thù cho vùng nước sâu, xa bờ, gắn phát triển kinh tế biển với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền. Cùng với đó, mở rộng khảo sát địa vật lý tại các vùng nước nông chuyển tiếp và nước sâu nhằm làm rõ cấu trúc địa chất; đánh giá tiềm năng khí hydrate và dầu khí phi truyền thống như nguồn dự trữ chiến lược.
VPI cũng đề xuất chuyển trọng tâm tìm kiếm sang các dạng bẫy phi cấu tạo, bẫy địa tầng, bẫy hỗn hợp; đồng thời ứng dụng công nghệ xử lý dữ liệu địa chấn tiên tiến, xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia, tích hợp AI/ML trong dự báo và sàng lọc mục tiêu thăm dò.
Về khai thác, sản lượng dầu thô từ các mỏ hiện hữu tiếp tục suy giảm do trữ lượng cạn kiệt. Hệ số bù trữ lượng giai đoạn 2016-2025 chỉ đạt 0,62 lần/năm, cho thấy tốc độ bổ sung trữ lượng mới không theo kịp sản lượng khai thác. Trong khi đó, nguồn khí được dự báo sẽ tăng khi các dự án trọng điểm như Lô B - Ô Môn, Cá Voi Xanh đi vào khai thác. VPI kiến nghị tối ưu hóa khai thác ở các mỏ đang hoạt động, đẩy nhanh khai thác các phát hiện mới - nhất là ở vùng nước sâu, xa bờ và các đối tượng phi truyền thống.
Trong lĩnh vực công nghiệp khí, nhu cầu khí hiện đạt 6,2-9,3 tỷ m³/năm, trong đó điện chiếm 65-70%, đạm 16-20% và công nghiệp 15%. Nhu cầu tương lai có thể tăng lên 10-15 tỷ m³/năm, trong khi sản lượng khai thác trong nước giai đoạn 2021-2024 có xu hướng giảm. Định hướng đặt ra là phát triển hạ tầng khí đồng bộ, tận thu tối đa nguồn khí hiện hữu, thúc đẩy triển khai các dự án trọng điểm, xây dựng thị trường khí theo cơ chế thị trường có điều tiết và từng bước liên kết với thị trường khu vực. Phát triển hệ thống đường ống liên vùng và kết nối các trung tâm năng lượng cũng được xác định là nhiệm vụ cấp thiết.

VPI đề xuất tập trung xây dựng các kho LNG trung tâm có khả năng cung cấp cho nhiều nhà máy (Ảnh: Kho LNG Thị Vải của PV GAS/Petrovietnam)
Đối với LNG, dù nhu cầu hiện thấp hơn năng lực nhập khẩu, nhưng dự báo sẽ tăng mạnh từ 2030-2035, đặc biệt để cung cấp cho các nhà máy điện LNG (tổng công suất gần 22.524 MW vào năm 2030). VPI đề xuất tập trung xây dựng các kho LNG trung tâm có khả năng cung cấp cho nhiều nhà máy, phát triển kho LNG gắn với khu kinh tế - công nghiệp ven biển, đồng thời đẩy nhanh tiến độ các dự án phù hợp Quy hoạch điện VIII điều chỉnh.
Trong lĩnh vực chế biến dầu khí, hiện sản xuất trong nước mới đáp ứng khoảng 60% nhu cầu, thấp hơn mục tiêu 70%. Các nhà máy vận hành ổn định nhưng cần tiếp tục tối ưu hóa, đa dạng hóa sản phẩm và tiết giảm chi phí. Định hướng phát triển là đầu tư các dự án chế biến mới, thu hút FDI, nâng cấp - mở rộng các tổ hợp hiện hữu, tăng tích hợp lọc dầu - hóa dầu - hóa chất, đồng thời nghiên cứu phát triển hydrogen, nhiên liệu hàng không bền vững (SAF) và nhiên liệu sinh học.
Đối với vận chuyển - tồn trữ - phân phối, dự trữ xăng dầu quốc gia hiện đạt 63 ngày nhập ròng, thấp hơn mục tiêu 75-80 ngày theo Quy hoạch 893 và chưa đạt yêu cầu 90 ngày theo Nghị quyết 70-NQ/TW. Vì vậy, cần đầu tư mở rộng hệ thống kho cảng, tăng dự trữ quốc gia, phát triển mạng lưới phân phối hợp lý và khuyến khích sử dụng nhiên liệu sinh học.
Về mục tiêu cụ thể, VPI đề xuất điều chỉnh mục tiêu gia tăng trữ lượng giai đoạn 2021-2030 xuống 13-17 triệu tấn quy dầu/năm; điều chỉnh mục tiêu khai thác dầu thô giai đoạn 2026-2030 lên 7-9,5 triệu tấn/năm; điều chỉnh mục tiêu thị trường khí phù hợp Nghị quyết 70; hoàn thiện hệ thống LNG trung tâm; giữ mục tiêu sản xuất xăng dầu đáp ứng tối thiểu 70% nhu cầu trong nước; nâng dự trữ xăng dầu đạt 90 ngày nhập ròng vào năm 2030.
Báo cáo cũng xác định định hướng phát triển theo vùng: Vùng núi trung du Bắc Bộ, Đồng bằng sông Hồng: nguồn khí nhỏ, rải rác, nhập LNG, phân phối qua đường ống hoặc CNG.
Bắc Trung Bộ: ưu tiên phát triển kho LNG, mở rộng Nhà máy Lọc hóa dầu Nghi Sơn.
Duyên hải Nam Trung Bộ - Tây Nguyên: phát triển LNG Sơn Mỹ, mở rộng Nhà máy Lọc dầu Dung Quất.
Đông Nam Bộ: hình thành Trung tâm Công nghiệp - Năng lượng Long Sơn - Sao Mai Bến Đình, mở rộng kho LNG Thị Vải.
Đồng bằng sông Cửu Long: phát triển cảng LNG, tận dụng hạ tầng khí - điện - đạm để hình thành trung tâm công nghiệp - năng lượng.
VPI cũng đưa ra danh mục các dự án ưu tiên: các dự án thăm dò tại bể Cửu Long, Nam Côn Sơn, Sông Hồng, Malay - Thổ Chu; các dự án khai thác tại các lô trọng điểm; hệ thống đường ống khí ngoài khơi - trên bờ; mở rộng kho LNG; nâng cấp - mở rộng nhà máy lọc dầu; xây dựng cơ sở chế biến condensate.
Cùng với đó, VPI kiến nghị Chính phủ hoàn thiện thể chế, chính sách giá, cơ chế ưu đãi cho dầu khí nước sâu - xa bờ; cơ chế CCS; cơ chế pass-through cho LNG; tăng vốn cho Tập đoàn Công nghiệp - Năng lượng Quốc gia Việt Nam (Petrovietnam); đầu tư hạ tầng; hình thành trung tâm công nghiệp - năng lượng quy mô lớn; thúc đẩy chuyển giao công nghệ, phát triển nhân lực và mở rộng hợp tác quốc tế.
Cân bằng an ninh năng lượng và chuyển dịch xanh
Đề án điều chỉnh Quy hoạch tổng thể về năng lượng quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 được xây dựng bởi Viện Năng lượng, VPI và Vinacomin trên cơ sở phân tích bối cảnh thị trường năng lượng thế giới biến động mạnh sau khủng hoảng năng lượng.
Phó Viện trưởng Viện Năng lượng Lê Việt Cường cho biết, xu hướng tái cấu trúc chuỗi cung ứng toàn cầu, các khuyến nghị về chuyển dịch năng lượng và yêu cầu giảm phát thải tạo áp lực lớn đối với các quốc gia, trong đó có Việt Nam. Trong nước, các định hướng lớn của Đảng và Nhà nước, nhất là Nghị quyết 70-NQ/TW và dự thảo Văn kiện Đại hội XIV, đặt ra yêu cầu bảo đảm an ninh năng lượng gắn với phát triển bền vững, là cơ sở quan trọng để triển khai đề án.
Đánh giá hiện trạng, TS. Nguyễn Ngọc Hưng (Viện Năng lượng) nêu rõ, nền kinh tế tăng trưởng nhanh, đô thị hóa mạnh khiến nhu cầu năng lượng tăng cao, trong khi Việt Nam phải thực hiện mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050. Điều này đòi hỏi hệ thống năng lượng vừa đáp ứng nhu cầu ổn định, vừa chuyển đổi sang các nguồn sạch hơn trong bối cảnh thị trường nhiên liệu quốc tế nhiều biến động và xu thế điện hóa gia tăng. Do đó, các kịch bản quy hoạch phải đáp ứng nhu cầu năng lượng cho tăng trưởng cao giai đoạn 2026-2030, đồng thời bảo đảm thực hiện mục tiêu chuyển dịch xanh.
Đề án xác định 3 nội dung trọng tâm: bảo đảm năng lực hệ thống năng lượng phục vụ tăng trưởng kinh tế hai con số giai đoạn 2026-2030; rà soát danh mục dự án theo không gian phát triển mới sau sắp xếp đơn vị hành chính; và cập nhật các chủ trương mới về dầu khí, khoa học - công nghệ, chuyển đổi số và hội nhập quốc tế. Lộ trình phát triển đến năm 2050 được chia theo từng giai đoạn, từ tối ưu khai thác tài nguyên trong nước, hoàn thiện hạ tầng LNG đến mở rộng năng lượng tái tạo, chuyển đổi nhiên liệu nhiệt điện sang hydrogen và amoniac, phát triển truyền tải HVDC và hướng tới hệ thống năng lượng trung hòa carbon với quy mô lớn về điện gió, điện mặt trời và hydrogen xanh.
Tại hội thảo, các đại biểu thống nhất rằng các kịch bản trong đề án đáp ứng được yêu cầu bảo đảm đủ năng lượng cho phát triển kinh tế - xã hội, phù hợp với mục tiêu tăng trưởng cao giai đoạn 2026-2030, đồng thời bám sát Nghị quyết 70-NQ/TW và lộ trình phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.
Huy Tùng












