'Hội nhập thông minh': Hướng đi mới cho nền kinh tế
Ba thập kỷ hội nhập đã đưa Việt Nam trở thành một trong những nền kinh tế có độ mở cao nhất thế giới, với kim ngạch xuất nhập khẩu tăng gần 60 lần và vị thế ngày càng vững chắc trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Việt Nam hiện nằm trong nhóm nước xuất khẩu hàng đầu về điện thoại, linh kiện, dệt may, da giày và nông sản… Tuy nhiên, đằng sau những thành tựu ấy là nghịch lý: giá trị gia tăng trong nước còn thấp, năng suất lao động chậm cải thiện, mô hình tăng trưởng vẫn dựa nhiều vào gia công, lắp ráp. Các chuyên gia kinh tế cho rằng đã đến lúc cần chuyển sang giai đoạn phát triển mới - hội nhập thông minh, tự chủ và sáng tạo hơn, vừa khai thác cơ hội toàn cầu hóa, vừa gia tăng hàm lượng giá trị Việt Nam trong chuỗi sản xuất.
Nghịch lý của nền kinh tế gia công
Ông Trần Quốc Khánh, Thường trực Hội đồng Tư vấn Chính sách của Thủ tướng, nguyên Thứ trưởng Bộ Công Thương, nêu lại nhận định của Tổng Bí thư Tô Lâm: Việt Nam đứng thứ hai thế giới về xuất khẩu điện thoại thông minh, thứ năm về linh kiện máy tính và thứ bảy về gia công phần mềm nhưng giá trị để lại trong nước lại rất nhỏ. Ông đặt câu hỏi: “Giá trị để lại thấp như vậy có ý nghĩa gì đối với nội lực và sức bật của nền kinh tế?”.
GS.TS. Hoàng Văn Cường, thành viên Hội đồng Tư vấn Chính sách của Thủ tướng, Phó Chủ tịch Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam, chỉ ra thẳng vấn đề: nền kinh tế Việt Nam hiện nay vẫn là nền kinh tế “gia công lắp ráp”, từ các ngành truyền thống như dệt may đến lĩnh vực công nghệ cao như bán dẫn, phần mềm, điện tử.
Giá trị gia tăng của chúng ta chỉ khoảng 8%, tức là phần giá trị để lại trong nước vẫn ở mức rất thấp. Nếu duy trì tình trạng này, Việt Nam có thể rơi vào bẫy thu nhập trung bình, chưa kịp giàu đã già trong khi lực lượng lao động vàng vẫn quanh quẩn trong khu vực giá trị thấp.
Theo ông Cường, mô hình tăng trưởng “hộ cho thế giới”, tức là tăng trưởng nhờ sản xuất cho các tập đoàn toàn cầu, nhưng không tạo tích lũy nội lực đang khiến năng suất lao động của Việt Nam bị kìm hãm. Dù làm việc nhiều hơn, người lao động vẫn chỉ hưởng phần nhỏ trong giá trị chuỗi toàn cầu: “Nếu người thợ may làm ra chiếc áo bán 10 đồng, Việt Nam chỉ được 1,5-2 đồng, còn doanh nghiệp chủ sở hữu thương hiệu hưởng tới 6-7 đồng”.
Đồng tình quan điểm này, ông Trần Quốc Khánh nhìn nhận: mô hình tăng trưởng dựa vào xuất khẩu giúp chúng ta duy trì tốc độ phát triển cao suốt hai thập niên. Tuy nhiên, bối cảnh thế giới đã thay đổi. Từ năm 2014, chủ nghĩa dân tộc kinh tế, bảo hộ thương mại và xu hướng đơn phương, điển hình như chính sách của Tổng thống Trump lan rộng khiến hệ thống thương mại đa phương WTO suy yếu. Dù vậy, toàn cầu hóa vẫn là xu thế khách quan không thể đảo ngược. Do đó, Việt Nam vẫn có thể tiếp tục dựa vào xuất khẩu, nhưng không thể đi theo cách cũ.
“Chúng ta phải chuyển từ hội nhập “chân thành” sang hội nhập “thông minh”, nghĩa là chủ động, linh hoạt và biết ứng phó với những chiêu trò ngày càng tinh vi của thế giới”, ông Khánh nhấn mạnh.

Từ “hội nhập chân thành” sang “hội nhập thông minh”
Giai đoạn mới của phát triển đòi hỏi một mô hình tăng trưởng cân đối hơn, trong đó xuất khẩu vẫn là trụ cột, nhưng phải đi cùng nội cầu mạnh và hàm lượng giá trị trong nước cao hơn. Ông Khánh gợi mở ba hướng đi chiến lược:
Thứ nhất, tiếp tục duy trì xuất khẩu nhưng hội nhập thông minh hơn, nghĩa là đa dạng hóa thị trường, nâng cao khả năng tự vệ thương mại, giảm phụ thuộc FDI và chủ động trong các hiệp định thương mại thế hệ mới.
Thứ hai, phát triển mạnh nội cầu, đặc biệt là tiêu dùng dân cư, coi đây là “động lực bền vững nhất” thay vì chỉ dựa vào đầu tư công. Chúng ta cần có chính sách tài khóa vị nội cầu, như xem xét điều chỉnh thuế thu nhập cá nhân để kích thích tiêu dùng.
Thứ ba, nâng “hàm lượng Việt Nam” trong giá trị xuất khẩu. Ví dụ, với kim ngạch 500 tỷ USD, nếu tỷ lệ giá trị trong nước tăng từ 20% lên 40%, thì GDP có thể tăng gấp đôi mà không cần tăng xuất khẩu.
Ông Khánh nhấn mạnh: “Cốt lõi không phải là xuất khẩu nhiều hơn, mà là xuất khẩu thông minh hơn, với tỷ lệ giá trị Việt Nam cao hơn”.
Về giải pháp gia tăng giá trị Việt Nam trong chuỗi toàn cầu, GS.TS. Hoàng Văn Cường cho rằng, để tăng “phần Việt Nam” trong sản phẩm, cần kết hợp hai con đường: tiệm tiến và đi tắt đón đầu.
Thứ nhất tiệm tiến là giảm dần phụ thuộc vào nguyên vật liệu và công nghệ nhập khẩu, từng bước thay thế bằng sản phẩm, linh kiện, thiết kế trong nước, đặc biệt trong các ngành may mặc, da giày, điện tử, chế biến thực phẩm.
“Nếu chúng ta vẫn xuất khẩu 500 tỷ USD nhưng nâng tỷ lệ giá trị nội địa từ 20% lên 40%, thì phần để lại Việt Nam có thể tăng từ 100 lên 200 tỷ USD mà không cần mở rộng quy mô xuất khẩu”, ông Cường nêu ví dụ.
Thứ hai, đi tắt đón đầu là tham gia ngay từ đầu vào chuỗi giá trị mới, công nghệ cao như chip bán dẫn, trí tuệ nhân tạo hay y sinh học. Việt Nam cần trở thành một mắt xích quan trọng trong khâu thiết kế, thử nghiệm và sáng tạo, thay vì chỉ dừng ở kiểm đếm, đóng gói.
Ông Cường cho biết, nhiều tập đoàn trong nước như Viettel đã bắt đầu đầu tư mạnh cho phòng thí nghiệm và trung tâm nghiên cứu công nghệ cao, nhằm tiến tới sản xuất thử nghiệm. Đây là bước đi giúp Việt Nam “đặt chân vào chuỗi giá trị ở phân khúc cao”.
Hội nhập tự chủ, chấp nhận rủi ro để bứt phá
Ông Trần Quốc Khánh thẳng thắn: “Đã thay đổi là phải chấp nhận rủi ro”. Các lĩnh vực mới như công nghệ cao, đổi mới sáng tạo, đầu tư mạo hiểm luôn chứa đựng rủi ro, nhưng nếu không dám đi trước, Việt Nam sẽ mãi chỉ làm theo người khác. Do đó, nhà nước và doanh nghiệp đều phải chấp nhận rủi ro có tính toán.
Nhà nước cần phát triển các cơ chế bảo hiểm đầu tư, quỹ đầu tư mạo hiểm, và chấp nhận rủi ro trong phạm vi chính sách để hỗ trợ doanh nghiệp tiên phong. Doanh nghiệp phải sẵn sàng đầu tư vào những lĩnh vực mà người khác chưa dám làm. Chỉ như thế chúng ta mới tạo được chuỗi giá trị mới.
Bàn về năng lực và tiềm năng nổi trội của Việt Nam, ông Khánh cho rằng, trí tuệ và sức sáng tạo của người Việt không thua kém ai, nhưng thay vì “xác định sẵn ngành mũi nhọn”, nên để thị trường và doanh nghiệp tự chọn đường đua.
“Không ai thông minh hơn thị trường. Việc của Nhà nước là tạo ra đường đua thật tốt, sau đó thả cả đàn ngựa ra, con nào mạnh sẽ vươn lên đầu đàn”, ông Khánh cho hay.
GS. Cường đồng tình với hình ảnh ẩn dụ đó, nhưng nhấn mạnh rằng “đường đua phải có quan sát và nuôi dưỡng”. Khi đã thấy những “con ngựa đầu đàn” tức là những doanh nghiệp tiềm năng, dẫn đầu chuỗi thì Nhà nước cần đầu tư bồi dưỡng, định hướng và hỗ trợ có trọng tâm.
Các chuyên gia đều thống nhất rằng để khai thác được những cơ hội mới, ba chủ thể chính là doanh nghiệp, bộ ngành và Chính phủ cần phải có chung một mục tiêu. Doanh nghiệp phải chủ động, sáng tạo và dám đi đầu bởi doanh nghiệp là người thực chiến, nắm bắt nhu cầu thị trường và xu hướng toàn cầu. Theo GS. Cường, doanh nghiệp cần đưa ra sáng kiến, phản hồi chính sách, chia sẻ kỳ vọng để các cơ quan nhà nước định hướng đúng. Ông nhấn mạnh, thay vì chỉ đề nghị hỗ trợ lãi suất hay ưu đãi đất, doanh nghiệp nên chủ động đề xuất sáng kiến phát triển ngành, cùng Chính phủ xây dựng chính sách phù hợp.
Các bộ, ngành phải là “người kết nối sức mạnh”, nhìn xu thế quốc tế, phân tích tiềm năng trong nước, từ đó đưa ra chiến lược phát triển ngành, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận công nghệ, vốn, thị trường. Đặc biệt, mô hình đặt hàng của Nhà nước cho doanh nghiệp trong nước được xem là hướng đi hiệu quả để tạo thị trường, khuyến khích đổi mới sáng tạo.
Chính phủ cần kiến tạo, bảo vệ và chấp nhận rủi ro. Vai trò của Chính phủ là tạo khung khổ pháp lý thông thoáng, bảo đảm môi trường đầu tư an toàn, ổn định vĩ mô và quan trọng nhất: chấp nhận rủi ro ban đầu khi mở đường cho các lĩnh vực mới.
“Chính phủ phải dám đi đầu trong đầu tư mạo hiểm cho khoa học công nghệ, nghiên cứu và hạ tầng đổi mới sáng tạo để doanh nghiệp có niềm tin và cơ sở phát triển”, GS. Cường nhấn mạnh.
Nguồn TBNH: https://thoibaonganhang.vn/hoi-nhap-thong-minh-huong-di-moi-cho-nen-kinh-te-172623.html











