Hồi sinh nghề cũ, mở lối thoát nghèo mới ở Bình Liêu

Từ một xưởng miến dong ban đầu chỉ dựa vào 200 triệu đồng vay mượn, Hoàng đã xây dựng thành Hợp tác xã, tạo việc làm thường xuyên cho khoảng 20 lao động người Sán Chỉ, với mức thu nhập ổn định 10–15 triệu đồng/tháng. Điều quan trọng hơn, mô hình này đang kéo theo một phong trào trồng dong riềng quy mô khoảng 10 ha, giúp hàng chục hộ dân có đầu ra ổn định, nhiều gia đình thoát nghèo bền vững.

 Húc Động mùa miến dong.

Húc Động mùa miến dong.

Trong câu chuyện phát triển sinh kế miền biên viễn Quảng Ninh, Bình Liêu luôn được nhắc đến như vùng đất giàu tiềm năng nông nghiệp đặc sản nhưng lại khắc nghiệt bởi địa hình dốc, khí hậu lạnh và thiếu điều kiện sản xuất tập trung. Nhiều năm trước, đồng bào Sán Chỉ ở vùng cao này vẫn quanh năm chật vật, sống dựa vào nương rẫy và khai thác tự nhiên. Nhưng một làn gió mới âm thầm thổi đến từ chính những người trẻ lựa chọn quay về bản làng, kết hợp nội lực bản địa với dòng chảy chính sách giảm nghèo bền vững của địa phương.

Câu chuyện của anh Trần Văn Hoàng (SN 1989), người Sán Chỉ thôn Húc Động, xã Bình Liêu, là một minh chứng sống động về hành trình thoát nghèo bằng nội lực, sự mạnh dạn đổi mới và tinh thần liên kết cộng đồng. Từ một xưởng miến dong ban đầu chỉ dựa vào 200 triệu đồng vay mượn, Hoàng đã xây dựng thành Hợp tác xã Nông – Lâm nghiệp và Dịch vụ Húc Động, tạo việc làm thường xuyên cho khoảng 20 lao động người Sán Chỉ, với mức thu nhập ổn định 10–15 triệu đồng/tháng. Điều quan trọng hơn: mô hình này đang kéo theo một phong trào trồng dong riềng quy mô khoảng 10 ha, giúp hàng chục hộ dân có đầu ra ổn định, nhiều gia đình thoát nghèo bền vững.

Trong bức tranh rộng hơn, Bình Liêu đang bước vào giai đoạn “bứt phá trong phát triển kinh tế, tạo đà cho nhiệm kỳ mới”, với tốc độ tăng trưởng giá trị sản phẩm dự kiến đạt 15,1% trong năm 2025; cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng thương mại – dịch vụ, công nghiệp – xây dựng, nhưng nông – lâm nghiệp vẫn là trụ đỡ quan trọng của vùng biên.

Thoát nghèo nhờ miến dong ở Bình Liêu

Tốt nghiệp Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội, Hoàng từng có hai năm làm việc tại Thủ đô. Thu nhập không quá thấp, nhưng cuộc sống đắt đỏ và nỗi trăn trở về chuyện lập nghiệp khiến anh luôn băn khoăn. “Ở phố không phải là nơi của mình, còn ở quê nghề miến dong ông bà truyền lại đã tồn tại cả trăm năm. Tại sao không thử?”, Hoàng kể.

Năm 2021, anh quyết định về thôn, bắt đầu dựng xưởng miến dong với vỏn vẹn 200 triệu đồng vay mượn họ hàng. Lúc ấy, nhiều người bảo anh liều. Miến dong Bình Liêu có tiếng, nhưng sản xuất nhỏ lẻ, thủ công, manh mún. Một nhóm 4–5 người làm việc quần quật cả ngày cũng chỉ cán được khoảng 120 kg bột. Thu nhập không đủ sống, người trẻ bỏ nghề đi làm công nhân, nhiều gia đình treo niềm tin vào những chuyến đi xa.

 Hoàng nâng niu từng sợi miến dong trước khi đóng gói.

Hoàng nâng niu từng sợi miến dong trước khi đóng gói.

Nhưng Hoàng nhìn thấy điều khác: “Lực lượng lao động địa phương rất khéo tay, lại gắn bó với nghề. Chỉ thiếu máy móc và tổ chức sản xuất”. Anh chọn cách bắt đầu từ cái mình có: kinh nghiệm truyền thống của gia đình, sự tin cậy của bà con trong thôn, và sự hỗ trợ của các chương trình tín dụng ưu đãi cho sản xuất, tạo việc làm trên địa bàn.

Theo báo cáo của UBND xã Bình Liêu, đến tháng 11/2025 toàn xã có 2.348 hộ vay vốn với tổng dư nợ hơn 160,6 tỷ đồng; riêng chương trình hỗ trợ tạo việc làm, duy trì và mở rộng việc làm đã cho 1.286 lao động vay với dư nợ trên 95 tỷ đồng.

Những con số đó cho thấy, quyết định “liều” của Hoàng không đứng một mình, mà nằm trong dòng chảy chung: vốn tín dụng chính sách đang thực sự đi vào từng nếp nhà, từng mô hình sản xuất ở vùng biên.

 HTX Húc Động đã tạo công ăn việc làm cho 20 lao động có thu nhập ổn định.

HTX Húc Động đã tạo công ăn việc làm cho 20 lao động có thu nhập ổn định.

Nhận thấy tiềm năng mở rộng sản xuất, từ 200 triệu đã có, Hoàng mạnh dạn làm hồ sơ vay hơn 700 triệu đồng từ Quỹ Hỗ trợ nông dân để đầu tư dây chuyền cơ giới hóa: máy nghiền, máy lọc, máy cán, hệ thống phơi sấy bán tự động. “Nếu cứ làm tay như cũ thì có giỏi lắm cũng chỉ đủ ăn. Muốn kéo được bà con theo, mình phải chứng minh là nghề này có thể sống được ở quy mô lớn hơn”, anh tính toán.

Khoản đầu tư này lập tức tạo nên bước ngoặt. Với cùng số lao động 4–5 người, nay xưởng có thể cán 1 tấn bột chỉ trong 3–5 giờ (từ 4h đến 9h sáng). Những ngày thời tiết đẹp, năng suất có thể đạt gần 2 tấn bột/ngày. Tốc độ tăng năng suất là điều mà trước đây không ai dám nghĩ tới.

Đằng sau những con số ấy là một logic rất “Bình Liêu”: địa phương đang đi theo hướng lấy vốn hỗ trợ, khoa học kỹ thuật và hạ tầng để “kéo” người dân vào chuỗi sản xuất bài bản. Trong nông nghiệp, xã gieo trồng gần 1.800 ha cây trồng, sản lượng lương thực cây có hạt đạt trên 4.385 tấn; giá trị ngành nông, lâm, thủy sản ước cả năm khoảng 168,3 tỷ đồng, đạt 100% kế hoạch.

 Mỗi tháng, thu nhập trung bình 10-15 triệu đồng từ xưởng sản xuất miến dong.

Mỗi tháng, thu nhập trung bình 10-15 triệu đồng từ xưởng sản xuất miến dong.

Những mô hình như xưởng miến của Hoàng chính là “khâu chế biến” giúp nông sản không chỉ dừng lại ở mức “đủ ăn”, mà thành hàng hóa có giá trị cao hơn.

Nhờ quy mô lớn, sản phẩm làm ra đồng đều, giữ được độ trong, dai và thơm đặc trưng của miến dong Bình Liêu. Xưởng của Hoàng nhanh chóng có chỗ đứng trên thị trường Tết, vốn là mùa cao điểm tiêu thụ miến truyền thống. Nhiều đại lý chủ động đặt hàng từ sớm, giúp hợp tác xã lên kế hoạch sản xuất, thu mua nguyên liệu và sắp xếp việc làm cho lao động.

 Chất lượng củ dong riềng tùy thuộc nhiều vào nguồn nước.

Chất lượng củ dong riềng tùy thuộc nhiều vào nguồn nước.

Đầu vào là yếu tố quyết định chất lượng miến. Vì vậy ngay từ khi bắt tay mở xưởng, Hoàng xác định phải gắn sản xuất với vùng nguyên liệu. Anh tìm đến Viện Cây có củ, Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, học hỏi quy trình trồng, chăm sóc, phòng bệnh, theo dõi sinh trưởng của dong riềng.

Sau đó, Hoàng mở các lớp tập huấn nhỏ ở thôn, tự tay hướng dẫn bà con: từ chọn giống, ủ giống, bón phân, canh dinh dưỡng, đến cách nhận biết nguồn nước tốt cho củ dong. Anh hỗ trợ giống, phân bón theo hình thức ứng trước, trừ sau; đồng thời cam kết thu mua toàn bộ sản lượng với giá ổn định.

Cây dong riềng trồng khoảng 9 tháng, từ sau Tết đến tháng 10 cho thu hoạch. Sau đó, chỉ trong vòng 2–3 tháng mùa khô, miến dong được sản xuất tập trung, phục vụ thị trường Tết và phần còn lại bán rải trong năm. Nhờ sự kiên trì của Hoàng, vùng Húc Động đến nay đã có khoảng 10 ha dong riềng được bà con liên kết trồng. Mỗi năm, xưởng thu mua trên 400 tấn củ, vừa đảm bảo sản xuất, vừa tạo thu nhập ổn định cho hàng chục hộ dân.

Kết quả đến cuối năm 2025, xã Bình Liêu không còn hộ nghèo, không còn hộ cận nghèo theo cả chuẩn quốc gia và chuẩn tỉnh Quảng Ninh; thay vào đó là 59 hộ làm nông, lâm, ngư nghiệp được xác định có mức sống trung bình, cần tiếp tục được hỗ trợ để tránh tái nghèo.

Trong bức tranh ấy, nghề miến dong Húc Động chính là “đầu kéo”: cho bà con đất trồng, cho cây trồng đầu ra ổn định, cho lao động việc làm tại chỗ. Khi thu nhập từ dong riềng, từ tiền công làm tại xưởng cộng lại, nhiều gia đình đã bước ra khỏi danh sách nghèo, tiến dần lên nhóm “trung bình khá” bằng sức mình.

Không chỉ máy móc quyết định chất lượng miến. Điều đặc biệt làm nên thương hiệu miến dong Bình Liêu là nguồn nước khe đầu nguồn. Dong riềng trồng ở vùng đất có nước lạnh, trong, nhiều khoáng chất cho củ trắng, hàm lượng tinh bột cao.

Quy trình chế biến cũng cầu kỳ: củ dong phải rửa sạch nhiều lần, sau đó nghiền, lọc, lắng. “Để bột đạt chuẩn, tôi phải lọc ít nhất 6 lần. Khi ấy bột mới mịn, trắng, không bị nát khi nấu”, Hoàng nói. Tinh bột chất lượng cao cho ra sợi miến có độ trong, dẻo, giữ hương thơm đặc trưng khi dùng.

Nhờ sự chỉn chu trong từng công đoạn, sản phẩm của Hợp tác xã Húc Động được nhiều đại lý trong và ngoài tỉnh đặt hàng từ sớm mỗi dịp Tết. Trong xu thế phát triển sản phẩm OCOP, miến dong Bình Liêu đang dần trở thành một trong những “gương mặt” được ưu tiên quảng bá tại hội chợ, sự kiện xúc tiến thương mại của địa phương. Năm 2025, xã Bình Liêu tổ chức Hội chợ thương mại hàng tiêu dùng tại Quảng trường 25/12, với sự tham gia của 5 đơn vị OCOP, 6 gian hàng, tập trung giới thiệu các sản phẩm nông nghiệp đặc sản, trong đó có miến dong.

 “Tôi chỉ mong nghề miến rong sống lâu, bà con trong thôn không ai nghèo nữa. Nếu làm được sản phẩm tốt, có thương hiệu mạnh, thì cuộc sống ở vùng biên này sẽ đổi thay”, Hoàng nói.

“Tôi chỉ mong nghề miến rong sống lâu, bà con trong thôn không ai nghèo nữa. Nếu làm được sản phẩm tốt, có thương hiệu mạnh, thì cuộc sống ở vùng biên này sẽ đổi thay”, Hoàng nói.

Tại xưởng miến của Hoàng, có 20 lao động thường xuyên, hầu hết là phụ nữ người Sán Chỉ. Trước đây, họ chỉ làm nương, nhặt củi, thu nhập bấp bênh theo mùa. Nay đi làm quanh thôn bản, lương 10–15 triệu đồng/tháng, có người còn trở thành lao động trụ cột trong gia đình. Nhiều hộ gia đình trong thôn đã thoát nghèo nhờ bán dong cho hợp tác xã và làm thêm tại xưởng.

“Không chỉ tăng thu nhập, quan trọng hơn là bà con yên tâm gắn bó với quê hương. Người trẻ không phải bỏ bản đi làm thuê, phụ nữ có thêm thu nhập, trẻ em được chăm lo tốt hơn”, Hoàng chia sẻ.

Theo báo cáo kinh tế - xã hội năm 2025, đến cuối năm xã Bình Liêu không còn hộ nghèo, không còn hộ cận nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều; tỷ lệ hộ tiếp cận được dịch vụ y tế, giáo dục, hạ tầng cơ bản ngày càng tăng, tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế đạt tới 98,67%.

Trên giấy tờ, những dòng chữ “0 hộ nghèo, 0 hộ cận nghèo” là cột mốc không chỉ có ý nghĩa hoàn thành chỉ tiêu, mà phản ánh một quá trình kiên trì kéo giảm từng hộ, từng nhóm yếu thế.

Nhưng đằng sau con số 0% luôn là những dấu hỏi về tính bền vững. Đó là lý do Bình Liêu không dừng lại ở việc “xóa” hộ nghèo, mà tiếp tục rà soát 59 hộ sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp có mức sống trung bình để đưa vào diện dễ tổn thương, cần quan tâm.

Các chương trình tín dụng ưu đãi, hỗ trợ sinh kế, đào tạo nghề, xây dựng nông thôn mới nâng cao… được thiết kế nhằm “đỡ” những nhóm này không bị rơi trở lại vạch nghèo, nhất là trước biến động khí hậu, dịch bệnh, biến động thị trường lao động.

Ở cấp cơ sở, xã triển khai đồng bộ chương trình nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu, duy trì 18/19 tiêu chí, 73/74 chỉ tiêu; chỉ tiêu còn lại liên quan đến chất lượng môi trường sống, nhà tiêu, nhà tắm, nước sinh hoạt an toàn.

Nghĩa là, câu chuyện nghèo, không nghèo hôm nay không chỉ là chuyện thu nhập, mà còn là chất lượng sống, môi trường, văn hóa. Mô hình nghề miến dong của Hoàng vì thế cũng được đặt trong yêu cầu mới: sạch hơn, xanh hơn, thân thiện hơn với cảnh quan và đời sống cộng đồng.

 Những mẹt miến dong trải đều trên đồng ruộng ở Bình Liêu.

Những mẹt miến dong trải đều trên đồng ruộng ở Bình Liêu.

Hồi sinh nghề miến rong chỉ là một mảnh ghép trong bức tranh chuyển dịch sinh kế ở Bình Liêu. Cùng với đó, địa phương đang đẩy mạnh phát triển du lịch cộng đồng, dịch vụ – thương mại, gắn với bản sắc văn hóa Sán Chỉ, Tày, Dao. Năm 2025, xã đón 27.770 lượt khách, doanh thu du lịch hơn 25 tỷ đồng; các điểm đến như thác Khe Vằn, chợ trung tâm, các bản làng vùng cao ngày càng thu hút du khách.

Một số sản phẩm OCOP, trong đó có miến dong, được đưa vào các không gian giới thiệu, hội chợ, các chương trình quảng bá du lịch. Địa phương cũng triển khai mô hình “Chợ 4.0 – Thanh toán không dùng tiền mặt”, thành lập Tổ công nghệ số cộng đồng, đẩy mạnh dịch vụ công trực tuyến, hỗ trợ người dân tiếp cận các kỹ năng số cơ bản.

Ở vùng biên, việc người dân dùng điện thoại để bán hàng, nhận đơn, quảng bá sản phẩm trên mạng xã hội chính là một dạng “đường thoát nghèo mới”, nơi công nghệ len vào bản làng một cách tự nhiên qua nhu cầu làm ăn.

Trong bối cảnh đó, Hợp tác xã Húc Động không chỉ là nơi chế biến miến, mà còn là điểm kết nối nhiều lớp tập huấn, chia sẻ kinh nghiệm làm kinh tế, từ cách chọn giống dong riềng, tính toán chi phí sản xuất, đến cách đóng gói, gắn nhãn, sử dụng mạng xã hội để tìm khách. Những kỹ năng ấy, nếu tách riêng, có thể chỉ là những chi tiết nhỏ; nhưng khi ghép lại, chúng tạo nên năng lực mới cho người nông dân biên giới trong nền kinh tế thị trường.

Mô hình liên kết chuỗi giá trị miến dong, vùng nguyên liệu, tín dụng ưu đãi, đào tạo nghề cũng giúp địa phương triển khai hiệu quả các nghị quyết về phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số, gắn với bảo đảm quốc phòng – an ninh. Khi người dân có sinh kế ổn định, ít ai còn muốn vượt biên trái phép tìm việc làm, ít ai nghĩ đến việc khai thác rừng quá mức hay phụ thuộc hoàn toàn vào trợ cấp.

 Bình Liêu đang có những bước đi chắc chắn để biến nông nghiệp đặc sản thành động lực giảm nghèo bền vững.

Bình Liêu đang có những bước đi chắc chắn để biến nông nghiệp đặc sản thành động lực giảm nghèo bền vững.

Câu chuyện ở Húc Động cho thấy rõ hiệu quả của mô hình liên kết chuỗi giá trị: doanh nghiệp, nông dân, nhà khoa học, nguồn vốn hỗ trợ. Một thanh niên bản địa dám nghĩ dám làm, một nghề truyền thống được “hiện đại hóa”, một vùng nguyên liệu được tổ chức bài bản, và hàng loạt hộ dân được kéo ra khỏi danh sách nghèo.

Trong bối cảnh Bình Liêu đang thúc đẩy các sản phẩm OCOP, phát triển nông nghiệp đặc sản, nâng cao thu nhập vùng đồng bào dân tộc thiểu số, mô hình của Hoàng được coi là một điển hình tiêu biểu. Nó giúp địa phương cụ thể hóa ba đột phá chiến lược đã đề ra: hạ tầng, nguồn nhân lực, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh.

Từ 200 triệu vay mượn đến vùng nguyên liệu 10 ha; từ 120 kg bột thủ công mỗi ngày đến 2 tấn bột cơ giới hóa trong vài giờ; từ một hộ nghèo đến một hợp tác xã tạo sinh kế cho hàng chục gia đình. Hành trình ấy không chỉ cho thấy sự nỗ lực của một cá nhân mà còn là con đường để Bình Liêu chuyển mình trong chiến lược giảm nghèo đa chiều.

Hôm gặp Hoàng, anh chỉ cười khi được hỏi về ước mơ. “Tôi chỉ mong nghề miến rong sống lâu, bà con trong thôn không ai nghèo nữa. Nếu làm được sản phẩm tốt, có thương hiệu mạnh, thì cuộc sống ở vùng biên này sẽ đổi thay”.

Từ quyết tâm của một người trẻ Sán Chỉ đến sự hồi sinh của nghề miến rong trăm tuổi, Bình Liêu đang có những bước đi chắc chắn để biến nông nghiệp đặc sản thành động lực giảm nghèo bền vững. Và giữa những con đường biên cương gió lộng, câu chuyện nhỏ ở Húc Động lại càng thắp lên niềm tin rằng: chỉ cần người trẻ quay về và cộng đồng cùng nhau làm, vùng cao sẽ luôn tìm được lối thoát nghèo từ chính những điều quen thuộc nhất.

Nội dung: Hoàng Dương - Quốc Nam | Đồ họa: Kiều Tú

Nguồn Tiền Phong: https://tienphong.vn/hoi-sinh-nghe-cu-mo-loi-thoat-ngheo-moi-o-binh-lieu-post1803440.tpo