Hội thảo khoa học: Xây dựng và hoàn thiện hành lang pháp lý cho thị trường chứng khoán phái sinh
Sáng ngày 24/11, tại Hà Nội, Trường Đại học Luật Hà Nội phối hợp với Tạp chí Pháp luật và Phát triển, Báo Pháp luật Việt Nam đồng tổ chức Hội thảo khoa học 'Xây dựng và hoàn thiện hành lang pháp lý cho thị trường chứng khoán phái sinh'.
Tham dự Hội thảo, có các đại biểu có GS.TS. Lê Hồng Hạnh - Tổng Biên tập Tạp chí Pháp luật và Phát triển, TS. Đoàn Trung Kiên - Hiệu trưởng Trường Đại học Luật Hà Nội, TS. Vũ Hoài Nam - Tổng Biên tập Báo Pháp luật Việt Nam, ThS.Trần Ngọc Hà - Phó Tổng Biên tập Báo Pháp luật Việt Nam cùng đông đảo các diễn giả là giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ, các chuyên gia đầu ngành về luật và kinh tế.
Phát biểu tại Hội thảo, TS. Đoàn Trung Kiên Hiệu trưởng Trường Đại học Luật Hà Nội cho biết, thị trường chứng khoán ở Việt Nam đi vào cuộc sống với tiếng cồng đầu tiên từ đầu những năm 2000, đã trải qua nhiều bước tiến đáng kể, trong đó có thể kể đến sự hình thành các thị trường chứng khoán chuyên biệt như thị trường cổ phiếu, thị trường trái phiếu và tiếp đó là thị trường chứng khoán phái sinh – chủ đề chính mà Hội thảo sẽ đề cập đến ngày hôm nay.
Thị trường phái sinh đi vào hoạt động với phiên giao dịch đầu tiên là sản phẩm hợp đồng tương lai chỉ số VN30 là sự kiện quan trọng của thị trường chứng khoán Việt Nam, đưa Việt Nam trở thành quốc gia thứ 5 trong khu vực ASEAN và thứ 42 trên thế giới có thị trường chứng khoán phái sinh. Đây là những con số rất ấn tượng thể hiện vị thế của Việt Nam trên thị trường toàn cầu.
Các đại biểu chụp ảnh lưu niệm tại Hội thảo.
Theo TS. Đoàn Trung Kiên, mặc dù là bộ phận thị trường mới, sự ra đời của chứng khoán phái sinh, sự phát triển của thị trường chứng khoán phái sinh nhằm hình thành đầy đủ các bộ phận thị trường chứng khoán đồng thời tạo ra công cụ phòng ngừa rủi ro đối với nhà đầu tư và là tiền đề thuận lợi cho quá trình huy động và khơi thông các nguồn vốn cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
“Đây cũng là kết quả của Chiến lược phát triển TTCK giai đoạn 2011 - 2020, hiện thực hóa Đề án xây dựng và phát triển TTCK phái sinh Việt Nam tại Quyết định số 366/QĐ-TTg ngày 11/3/2014 của Thủ tướng Chính phủ”- TS Đoàn Trung Kiên nói.
Các văn bản pháp luật về chứng khoán phái sinh và TTCK phái sinh được ban hành nhằm xây dựng khuôn khổ pháp lý cho sự ra đời và hoạt động của thị trường này đồng thời ghi nhận ở mức độ cao hơn tại Luật Chứng khoán 2019.
Tuy nhiên, TS. Đoàn Trung Kiên cho rằng, đến nay, thực tiễn cho thấy, do TTCK ở Việt Nam còn mới, hàng hóa và mức độ sôi động của giao dịch trên thị trường còn giới hạn. Do đó, việc đánh giá thực tiễn pháp lý ở Việt Nam, có tính tới những vấn đề kinh tế pháp lý trên phạm vi thị trường toàn cầu là cần thiết, xét cả góc độ hoàn thiện các quy định của pháp luật về chứng khoán phái sinh và sự phát triển bền vững thị trường chứng khoán.
Tại Hội thảo, Phó Tổng Biên tập Báo Pháp luật Việt Nam ThS. Trần Ngọc Hà cho biết, sau quá trình gửi thư mời viết bài Hội thảo một cách công khai, rộng rãi và phản biện độc lập đối với các bài viết được gửi tới, Ban Tổ chức Hội thảo đã chọn lọc được 17 bài viết có chất lượng tốt để đăng trên Kỷ yếu Hội thảo trọng điểm “Xây dựng và hoàn thiện hành lang pháp lý cho thị trường chứng khoán phái sinh”.
Nội dung của 17 bài viết đã nghiên cứu, phân tích, đánh giá đầy đủ, toàn diện các vấn đề liên quan đến chứng khoán phái sinh và thị trường chứng khoán phái sinh và tập trung vào 2 nhóm vấn đề lớn:
Một là, những vấn đề lý luận về chứng khoán phái sinh và thực trạng pháp luật hiện hành đối với chứng khoán phái sinh, thị trường chứng khoán phái sinh.
Hai là, gợi mở một số giải pháp nhằm xây dựng và hoàn thiện pháp luật về TTCK phái sinh.
Ngoài phần khai mạc, bế mạc và phần thảo luận, sẽ có 2 phiên chính để các diễn giả trình bày báo cáo.
Tại phiên 1, Hội thảo sẽ diễn ra với các phiên trình bày với 4 chủ đề:
Chủ đề 1: “Chứng khoán phái sinh và thị trường chứng khoán phái sinh - Kỳ vọng và Thực trạng.
Chủ đề 2: Chứng khoán phái sinh và sự cần thiết phải xây dựng, hoàn thiện pháp luật về giao dịch chứng khoán phái sinh.
Chủ đề 3: Phạm vi điều chỉnh pháp luật đối với chứng khoán phái sinh - Góc nhìn so sánh giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật một số quốc gia.
Chủ đề 4: Vai trò của công ty chứng khoán trên thị trường chứng khoán phái sinh – Một số bình luận dưới góc độ pháp luật điều chỉnh.
Trong phiên thứ 2, Hội thảo sẽ diễn ra với 4 chủ đề:
Chủ đề 1: Hợp đồng kỳ hạn, tính thanh khoản và khả năng phòng ngừa rủi ro kinh doanh bất động sản ở Việt Nam - Thực trạng pháp luật và một số kiến nghị.
Chủ đề 2: Pháp luật về kinh doanh chứng khoán phái sinh tại các Công ty chứng khoán ở Việt Nam - Một số bình luận mở.
Chủ đề 3: Đánh giá sự tác động của pháp luật tới sự tham gia của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán phái sinh tại Việt Nam.
Chủ đề 4: Thuế đối với chứng khoán - Thực trạng và khả năng áp dụng đối với chứng khoán phái sinh.
Bản chất của chứng khoán phái sinh
TS. Tạ Thanh Bình Vụ trưởng Vụ Phát triển thị trường, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước cho biết, việc thiết lập TTCKPS tại Việt Nam đã được Chính phủ quan tâm và định hướng từ rất sớm. Ngày 11/03/2014, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 366/QĐ-TTg phê duyệt “Đề án xây dựng và phát triển TTCKPS tại Việt Nam” với những lộ trình và bước đi cụ thể.
Sau một khoảng thời gian vận hành, cùng với việc hoàn thiện khung pháp lý trên TTCK. Tính đến ngày 10/8/2023, TTCKPS tròn 6 năm hoạt động. TTCKPS nói chung và sản phẩm HĐTL chỉ số VN30 đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận: TTCKPS đã có bước tăng trưởng tương đối tốt và ổn định, giao dịch sôi động và thu hút ngày càng nhiều nhà đầu tư tham gia thị trường, góp phần hoàn thiện cấu trúc TTCK, thị trường tài chính Việt Nam.
Cũng theo TS. Tạ Thanh Bình, TTCKPS đã từng bước trở thành công cụ phòng ngừa rủi ro cho nhà đầu tư. Trong giai đoạn thị trường giảm mạnh do tác động của cuối đại dịch Covid-19 năm 2022, thanh khoản thị trường phái sinh (hợp đồng tương lai trên chỉ số VN30) ghi nhận khối lượng giao dịch bình quân tăng mạnh 43,8% so với năm 2021.
Sau 6 năm vận hành, hệ thống văn bản pháp luật và quy chế nghiệp vụ liên quan ngày càng hoàn thiện và đồng bộ hơn, tạo điều kiện cho TTCKPS vận hành minh bạch, ổn định. Hạ tầng công nghệ thông tin (CNTT) vận hành thông suốt, an toàn và hiệu quả.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, TTCKPS còn tồn đọng nhiều hạn chế như: sản phẩm HĐTL TPCP kỳ hạn 5 năm và 10 năm tuy chưa thành công về mặt thanh khoản; Hoạt động của TTCKPS nói chung và sản phẩm HĐTL chỉ số VN30 nói riêng còn hạn chế về sự tham gia của các nhà đầu tư. Điều này cho thấy tăng trưởng của thị trường tiềm ẩn rủi ro phát triển không bền vững.
“Trong giai đoạn đầu, gần 99% giao dịch được thực hiện bởi các nhà đầu tư cá nhân, tỉ trọng này đã giảm xuống còn khoảng 86% trong những tháng cuối năm 2019 và 67% vào cuối tháng 7/2023” – TS Bình dẫn chứng.
Bên cạnh đó, sản phẩm trên thị trường chưa đa dạng, chỉ có 03 sản phẩm là HĐTL chỉ số VN30 và HĐTL TPCP kỳ hạn 05 và 10 năm trong đó các HĐTL TPCP chưa thành công, thanh khoản thấp và thậm chí không thanh khoản. Vì vậy, nhà đầu tư tập trung vào giao dịch một sản phẩm là HĐTL chỉ số VN30 khiến giao dịch sản phẩm có nhiều biến động bất thường thời gian qua, đặc biệt là vào các phiên đáo hạn. Điều này đặt ra yêu cầu cần thiết có thêm các sản phẩm phái sinh khác trên chỉ số.
“Có thể nói, TTCKPS là một thị trường mới, phức tạp. Đến nay, trải qua 6 năm hình thành và phát triển, TTCKPS đã đạt được những thành tựu nhất định nhưng cũng phát sinh những hạn chế, tồn tại. Tuy nhiên, nhìn trên tổng diện thị trường, có thể nói việc vận hành TTCKPS là một chủ trương đúng đắn của Nhà nước, Chính phủ. TTCKPS đã và đang phát triển theo lộ trình từ thấp đến cao, theo đúng định hướng của Chính phủ đề ra trong Quyết định số 366/QĐ-TTg.” – TS Bình nhìn nhận.
Đồng quan điểm, TS. Nguyễn Minh Hằng – Trưởng Bộ môn Luật Tài chính – Ngân hàng Trường Đại học Luật Hà Nội cho hay, sự xuất hiện của chứng khoán phái sinh được coi là điều tất yếu của quá trình phát triển ngày càng mạnh mẽ của thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, cũng giống như thị trường chứng khoán nói chung, thị trường chứng khoán phái sinh để tồn tại, hoạt động hiệu quả cần dựa trên hệ thống cơ sở pháp lý đầy đủ và phù hợp với thực tiễn.
Theo TS. Nguyễn Minh Hằng, điều này xuất phát từ một số lý do cơ bản sau: Thứ nhất, xuất phát từ tầm quan trọng của TTCK phái sinh và mối quan hệ giữa TTCK phái sinh với TTCK cơ sở. TTCK phái sinh ảnh hưởng đến biến động của TTCK cơ sở. Một mặt, TTCK phái sinh có liên quan đến giảm độ biến động thị trường cơ sở, hỗ trợ cho giả thuyết ổn định thị trường cơ sở. Mặt khác, một bộ phận kết quả nghiên cứu lại chỉ ra rằng, giao dịch chứng khoán phái sinh dẫn đến tăng độ biến động thị trường cơ sở.
Bên cạnh đó, TTCK phái sinh ảnh hưởng đến thanh khoản của TTCK cơ sở. Tính thanh khoản vốn là đặc điểm quan trọng cho chất lượng của TTCK cơ sở. Do vậy, khi xuất hiện sản phẩm tài chính mới có liên quan đến tài sản cơ sở.
Cũng theo TS. Nguyễn Minh Hằng, việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về TTCK phái sinh, giao dịch chứng khoán phái sinh xuất phát từ quan điểm, định hướng, chiến lược của Đảng và Nhà nước Việt Nam.
Bà Hằng cho biết, từ thực tiễn, hoạt động TTCK phái sinh ở Việt Nam từ khi ra đời đến nay đã cho thấy sự cần thiết phải xây dựng và hoàn thiện pháp luật điều chỉnh về thị trường này. Mặc dù đã đạt được những thành quả nhất định, TTCK phái sinh Việt Nam được đánh giá đã tăng trưởng ổn định, giao dịch sôi động và thu hút ngày càng nhiều nhà đầu tư tham gia thị trường. Tuy nhiên, hàng hóa trên thị trường còn chưa phong phú, dẫn đến chưa phát huy tối ưu vai trò phòng vệ rủi ro cũng như gia tăng kênh đầu tư cho các nhà đầu tư.
“Điều này dẫn tới sự hiện diện của các nhà đầu tư trong nước trên thị trường còn hạn chế” – bà Hằng nói.
Cũng theo bà Hằng, TTCK của Việt Nam sau 23 năm phát triển vẫn được coi là thị trường chứng khoán non trẻ, dễ chịu ảnh hưởng khi có các tác động tiêu cực của nền kinh tế trong nước cũng như nền kinh tế thế giới. Do TTCK phái sinh tại Việt Nam mới ra đời, trong khi tính chất đầu cơ và rủi ro trên TTCK phái sinh khá cao, nên việc cần có một khung pháp lý hoàn chỉnh để có thể dung hòa các mối quan hệ trên là vô cùng cần thiết.
Dựa trên kinh nghiệm của các quốc gia khác trên thế giới, bà Hằng cho rằng, khung pháp lý sẽ là nền tảng để thiết lập một thị trường phái sinh tập trung, đa dạng, quy mô lớn hơn. Với sự quản lý của nhà nước sẽ khiến thị trường hoạt động một cách minh bạch, hiệu quả và công bằng.
Pháp luật chứng khoán phái sinh từ các nước
GS.TS. Lê Hồng Hạnh – Tổng Biên tập Tạp chí Pháp luật và Phát triển, chứng khoán phái sinh, công cụ phái sinh là những công cụ tài chính được sử dụng nhằm tạo sự thanh khoản thị trường, thúc đẩy hoạt động phát triển đầu tư nhờ chuyển hóa các nguồn tài chính đang đóng băng trong tài sản truyền thống sang một dạng tài sản có thể chuyển nhượng ngay thay vì chờ hết hợp đồng hạn tương lai hay đáo hạn trái phiếu, cổ phiếu và các công cụ tài chính kỳ hạn khác.
Chứng khoán phái sinh hình thành từ tài sản cơ bản và giá trị của chúng phụ thuộc và giá trị của tài sản cơ bản ở thời điểm giao dịch. Chứng khoán phái sinh rất đa dạng vì sự đa dạng của tài sản cơ bản. Trong hệ thống pháp luật của các quốc gia xuất hiện nhiều chứng khoán phái sinh do pháp luật ở các nước đó cho phép nhiều loại quyền tài sản tham gia các giao dịch tài chính.
Ở Việt Nam hiện nay có 4 loại chứng khoán phái sinh được phép tham gia các giao dịch gồm: Hợp đồng chỉ số VN30; hợp đồng trái phiếu chính phủ; chứng quyền của các cổ phiếu; hợp đồng tương lai. Trên thực tế, hiện chủ yếu hợp đồng chỉ số VN30 và hợp đồng trái phiếu chính phủ tham gia giao dịch.
Theo GS.TS Lê Hồng Hạnh, tại nhiều quốc gia, chứng khoán phái sinh tồn tại ở hầu hết các tài sản với tư cách là tài sản cơ bản. Ở Mỹ, pháp luật chứng khoán phái sinh xuất hiện ở Mỹ khá sớm bắt đầu từ các hợp đồng tương lai mà đối tượng giao dịch là sản phẩm nông nghiệp.
Tại quốc gia này, chứng khoán phái sinh, giao dịch chứng khoán phái sinh được điều chỉnh bởi luật liên bang. Để một giao dịch được CFTC quản lý theo CEA, nó phải liên quan đến cả hàng hóa theo luật định và hợp đồng tương lai hoặc quyền chọn.
“Trong số các hàng hóa được pháp luật Mỹ coi là tài sản cơ bản dễ dàng nhận ra thuật ngữ sản phẩm. Sản phẩm được hiểu là những tài sản hữu hình, có giá trị và được sản xuất trong lĩnh vực khác nhau. Như vậy, hầu hết mọi thứ đều có thể là sản phẩm, bao gồm các phép tính toán học hoặc đo lường hiện tượng, dịch vụ và các tài sản vô hình hoặc dự phòng khác không thuộc điều khoản đó trong bất kỳ trường hợp nào bối cảnh thực tế khác” - GS.TS Lê Hồng Hạnh chia sẻ.
Tại Trung Quốc, theo GS.TS Lê Hồng Hạnh, chứng khoán phái sinh là hiện tượng mới đối với quốc gia này nhưng nền kinh tế năng động và sự hội nhập mạnh mẽ của đất nước này vào thị trường tài chính, tiền tệ thế giới, cộng thêm sự kế thừa từ Hồng Kông nên Trung Quốc có sự phát triển đáng kể trong lĩnh vực này.
“Trung Quốc ban hành Luật về Hợp đồng tương lai và Chứng khoán phái sinh (Futures and Derivatives Law of the People's Republic of China năm 2022 để khắc phục những hạn chế, bất cập tồn tại trong các văn bản pháp luật hiện hành về chứng khoán nói chung và chứng khoán phái sinh nói riêng” – GS.TS Lê Hồng Hạnh nói.
Tại Việt Nam, tại Khoản 9 Điều 4 Luật Chứng khoán năm 2019 quy định: “Chứng khoán phái sinh là công cụ tài chính dưới dạng hợp đồng, bao gồm hợp đồng quyền chọn, hợp đồng tương lai, hợp đồng kỳ hạn, trong đó xác nhận quyền, nghĩa vụ của các bên đối với việc thanh toán tiền, chuyển giao số lượng tài sản cơ sở nhất định theo mức giá đã được xác định trong khoảng thời gian hoặc vào ngày đã xác định trong tương lai”.
Pháp luật Việt Nam hiện hành chỉ xác định có 3 loại chứng khoán phái sinh bao gồm: Hợp đồng quyền chọn, Hợp đồng tương lai, Hợp đồng kỳ hạn.
Trong đó, Hợp đồng quyền chọn được định nghĩa là loại chứng khoán phái sinh, xác nhận quyền của người mua và nghĩa vụ của người bán để thực hiện một trong các giao dịch: Mua hoặc bán số lượng tài sản cơ sở nhất định theo mức giá thực hiện đã được xác định tại thời điểm trước hoặc vào ngày đã xác định trong tương lai; Thanh toán khoản chênh lệch giữa giá trị tài sản cơ sở đã được xác định tại thời điểm giao kết hợp đồng và giá trị tài sản cơ sở tại thời điểm trước hoặc vào ngày đã xác định trong tương lai.
Hợp đồng tương lai là loại chứng khoán phái sinh niêm yết, xác nhận cam kết giữa các bên để thực hiện một trong các giao dịch: Mua hoặc bán số lượng tài sản cơ sở nhất định theo mức giá đã được xác định vào ngày đã xác định trong tương lai; Thanh toán khoản chênh lệch giữa giá trị tài sản cơ sở đã được xác định tại thời điểm giao kết hợp đồng và giá trị tài sản cơ sở vào ngày đã xác định trong tương lai. Hợp đồng kỳ hạn là loại chứng khoán phái sinh giao dịch thỏa thuận, xác nhận cam kết giữa các bên về việc mua hoặc bán số lượng tài sản cơ sở nhất định theo mức giá đã được xác định vào ngày đã xác định trong tương lai.
“Định nghĩa như vậy là khá đơn giản và chưa loại bỏ được yếu tố rủi ro của thị trường chứng khoán phái sinh khi giá trị của chứng khoán phái sinh rung và bản thân thị trường cũng rung lắc từng giờ” – GS.TS Lê Hồng Hạnh đánh giá.
Xét về nội dung điều chỉnh thì pháp luật Việt Nam hiện hành chưa thể tạo được nền tảng cho việc phát triển thị trường chứng khoán phái sinh.
“ Luật Chứng khoán năm 2019 điều chỉnh thị trường chứng khoán truyền thống với chỉ 11 lần nhắc đến chứng khoán phái sinh, một lần nhắc đến thị trường chứng khoán phái sinh. Hầu như chưa có quy định cụ thể nào trong Luật Chứng khoán năm 2019 có thể tạo ra được đặc thù điều chỉnh loại chứng khoán phái sinh dù đó là hợp đồng tương lai, quyền chọn hay hợp đồng kỳ hạn” – GS.TS Lê Hồng Hạnh nói.
Theo GS.TS Lê Hồng Hạnh, trong bối cảnh toàn cầu hóa thương mại và toàn cầu hóa các dịch vụ tài chính, ngân hàng thì xu hướng phát triển của thị trường chứng khoán phái sinh là không thể cưỡng lại. Đối với Việt Nam, chỉ đánh giá sơ bộ về phạm vi điều chỉnh của pháp luật Việt Nam đối với giao dịch chứng khoán trong sự so sánh với một vài quốc gia đã cho thấy có sự lạc hậu quá nhiều.
Vai trò của Công ty Chưng khoán trên thị trường chứng khoán phái sinh
TS Nguyễn Thị Phương Thảo giảng viênTrường Đại học Luật Hà Nội cho biết, Công ty chứng khoán là chủ thể có vai trò đặc biệt quan trọng trên thị trường chứng khoán nói chung và thị trường chứng khoán phái sinh nói riêng. Trên thị trường chứng khoán cơ sở, CTCK tham gia hầu hết các khâu của quá trình luân chuyển chứng khoán, từ khâu phát hành trên thị trường sơ cấp đến khâu giao dịch mua bán chứng khoán trên thị trường thứ cấp. Trong khi đó, trên thị trường chứng khoán phái sinh, CTCK vẫn giữ vai trò là trung gian giao dịch nhưng có những điểm khác biệt nhất định.
Dưới góc độ pháp lý xem xét trong phạm vi các hoạt động kinh doanh được phép thực hiện, vai trò của CTCK trên thị trường chứng khoán phái sinh thể hiện ở vai trò môi giới thông qua tư cách thành viên giao dịch trên thị trường; vai trò trung gian thanh toán giao dịch thông qua tư cách thành viên bù trừ trên thị trường; vai trò tạo thanh khoản cho thị trường thông qua tư cách thành viên tạo lập thị trường; vai trò nhà đầu tư tham gia thị trường; vai trò nhà tư vấn đầu tư chứng khoán.
Tại Việt Nam, thị trường chứng khoán phái sinh ra đời sau thị trường cơ sở gần hai chục năm, giai đoạn đầu còn mang tính thử nghiệm, chưa ổn định, cùng với đó là đặc thù riêng về cơ chế vận hành, giao dịch. Vì vậy, mặc dù cùng dựa trên một văn bản pháp lý có giá trị cao nhất là Luật Chứng khoán nhưng ngay từ ngày đầu hoạt động, thị trường chứng khoán phái sinh đã có hệ thống văn bản pháp lý riêng điều chỉnh.
Năm 2019, thế hệ Luật chứng khoán thứ hai ra đời và đặc thù này vẫn tiếp tục được duy trì. Trên cơ sở Luật Chứng khoán 2019, Nghị định 158/2020/NĐ-CP của Chính phủ về chứng khoán phái sinh và thị trường chứng khoán phái sinh được ban hành thay thế Nghị định 42/2015/NĐ-CP. Tiếp đó, Thông tư 158/2021/TT-BTC của 128 Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành cùng một loạt các quy chế, quy trình mới của HNX và VSD ra đời, thay thế cho hệ thống quy định cũ có nhiều bất cập.
Về mặt hình thức, pháp luật đã ghi nhận tương đối đầy đủ các vai trò cần thiết của công ty chứng khoán trên thị trường phái sinh. Pháp luật đã tạo cơ chế gia nhập thị trường cho công ty chứng khoán tương đối phù hợp, đảm bảo cơ sở để thực hiện và phát huy được vai trò của công ty. Các quy định nền tảng cho một số hoạt động của công ty chứng khoán trên thị trường phái sinh đã được đề cập khá đầy đủ, tạo thuận lợi nhất định để công ty thực hiện được vai trò nhưng cũng tạo giới hạn an toàn cho thị trường. Tuy nhiên, một số bất cập của pháp luật hiện hành đã ảnh hưởng đến việc thực hiện và phát huy hiệu quả vai trò của công ty chứng khoán trên thị trường chứng khoán phái sinh Việt Nam như:
Thứ nhất, việc xác định mức độ trong một số tiêu chí gia nhập thị trường chứng khoán phái sinh của công ty chứng khoán còn chưa hợp lý, gây khó khăn cho quá trình tham gia của công ty chứng khoán.
Thứ hai, quy định hiện hành về cơ chế sử dụng chứng khoán làm tài sản ký quỹ khó khả thi, không tạo điều kiện cho các nhà đầu tư và gây khó khăn cho công ty chứng khoán phát huy hiệu quả vai trò bù trừ thanh toán trên thị trường.
Thứ ba, hành lang pháp lý về hoạt động tạo lập thị trường chưa vững chắc, thiếu cơ chế ưu đãi tạo động lực thu hút công ty chứng khoán phát huy vai trò nhà tạo lập thị trường.
Thứ tư, pháp luật chưa quy định định cụ thể trách nhiệm của công ty chứng khoán trong vai trò nhà tư vấn đầu tư chứng khoán phái sinh.
“Do vậy, để phát triển thị trường chứng khoán phái sinh một cách ổn định, an toàn và bền vững, việc làm cần thiết là phải hoàn thiện các quy định pháp luật này” - TS Nguyễn Thị Phương Thảo đề xuất tại Hội thảo.
Theo TS Nguyễn Thị Phương Thảo, cần phải thay đổi cách thức quy định về mức vốn điều lệ tối thiểu áp dụng cho các hoạt động kinh doanh chứng khoán trên cả thị trường chứng khoán cơ sở và thị trường chứng khoán phái sinh theo hướng chỉ quy định mức tối thiểu chung. Cũng như cho phép thực hiện cơ chế ký quỹ bằng chứng khoán ở cấp độ nhà đầu tư và thành viên bù trừ trong khi vẫn giữ nguyên yêu cầu ký quỹ bằng tiền ở cấp độ thành viên bù trừ và VSD.
Đồng thời, quy định cụ thể về hoạt động tạo lập thị trường cùng với các cơ chế ưu đãi kèm theo, tạo động lực thúc đẩy các công ty chứng khoán thực hiện; quy định cụ thể trách nhiệm của công ty chứng khoán trong vai trò nhà tư vấn đầu tư chứng khoán nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của các nhà đầu tư và đảm bảo tính ổn định của thị trường...
Hợp đồng kỳ hạn - giảm thiểu rủi ro về giá cho người mua bất động sản
PGS.TS. Viên Thế Giang - Chủ nhiệm Bộ môn Luật cơ sở Trường Đại học học Ngân hàng TP Hồ Chí Minh cho biết, chứng khoán phái sinh theo quy định của Luật Chứng khoán hiện hành “là công cụ tài chính dưới dạng hợp đồng, bao gồm hợp đồng quyền chọn, hợp đồng tương lai, hợp đồng kỳ hạn, trong đó xác nhận quyền, nghĩa vụ của các bên đối với việc thanh toán tiền, chuyển giao số lượng tài sản cơ sở nhất định theo mức giá đã được xác định trong khoảng thời gian hoặc vào ngày đã xác định trong tương lai.
Sản phẩm chứng khoán phái sinh bao gồm nhiều sản phẩm khác nhau, tùy thuộc vào sự lựa chọn của mỗi quốc quốc gia. Chẳng hạn, tại Singapore, có bốn loại hợp đồng phái sinh chủ yếu dựa vào đối tượng của hợp đồng hợp đồng phái sinh cổ phiếu, hợp đồng phái sinh hàng hóa, hợp đồng phái sinh lãi suất và hợp đồng phái sinh ngoại hối.
Hợp đồng kỳ hạn theo quy định của Luật Chứng khoán Việt Nam hiện hành “là loại chứng khoán phái sinh giao dịch thỏa thuận, xác nhận cam kết giữa các bên về việc mua hoặc bán số lượng tài sản cơ sở nhất định theo mức giá đã được xác định vào ngày đã xác định trong tương lai.
Theo PGS.TS. Viên Thế Giang, điểm khác biệt của hợp đồng kỳ hạn là việc chuyển giao quyền sở hữu tài sản cơ sở là đối tượng của hợp đồng giữa người mua và người bán không phải ở thời điểm ký hợp đồng mà được thực hiện tại thời điểm xác định trong tương lai do các bên thỏa thuận.
Để tạo lập hợp đồng, các bên tiến hành gặp gỡ, trao đổi các vấn đề liên quan đến tài sản cơ sở, giá cả và kỳ hạn của hợp đồng. Việc xác định kỳ hạn của hợp đồng tùy thuộc vào loại tài sản cơ sở. Khi đến hạn hợp đồng, bên bán và bên mua thanh toán trực tiếp cho nhau, nên các bên tham gia hợp đồng cũng có thể phải đối mặt với nhiều rủi ro. Cụ thể: Đối với bên bán, nếu bên mua mất khả năng thanh toán thì việc thực hiện hợp đồng (nghĩa vụ thanh toán) là khó khả thi. Đối với bên mua, do tính chất “kỳ hạn” nên rủi ro pháp lý liên quan đến tư cách chủ thể (bên bán bị tuyên bố phá sản hoặc giải thể) hoặc tài sản cơ sở liên quan đến các dự án đầu tư được chuyển giao cho người khác có thể xảy ra.
Theo PGS.TS. Viên Thế Giang, trong kinh doanh bất động sản, việc phát triển công cụ hợp đồng kỳ hạn sẽ giúp giảm thiểu rủi ro về giá cho người mua bất động sản. Đối với doanh nghiệp bất động sản, yêu cầu bắt buộc giao dịch bất động sản dự án qua sàn giao dịch bất động sản sẽ tạo lập cơ sở để xác định giá trị tài sản sở của hợp đồng kỳ hạn bất động sản.
Lý giải điều này, PGS.TS. Viên Thế Giang cho biết, trên thị trường bất động sản, các bên tham gia giao dịch cũng phải đối mặt với muôn vàn các rủi ro từ rủi ro pháp lý đến rủi ro thị trường. Chủ đầu tư phải đối mặt với các chi phí phát sinh, chi phí bôi trơn... Người mua bất động sản, do giới hạn về nguồn tài chính để tạo lập bất động sản, sẽ phải phát sinh thêm chi phí vay vốn từ các ngân hàng thương mại.
Nhiều doanh nghiệp bất động sản, dù dự án chưa được phê duyệt hoặc đang trong giai đoạn chờ phê duyệt, nhưng đã thực hiện các hoạt động chào bán. Nhiều người mua bất động sản, do không nắm được thông tin về tình trạng dự án đã xác lập các giao dịch liên quan. Điều này đã dẫn tới các rủi ro tiềm tàng cho người tham gia giao dịch bất động sản.
“Do đó, việc phát triển hợp đồng kỳ hạn trong giao dịch bất động sản góp phần hạn chế các rủi ro thông tin bất cân xứng, đồng thời ngăn ngừa tình trạng thiếu minh bạch thông tin từ các giao dịch bất động sản, đồng thời bảo đảm quyền cho người mua bất động sản trong trường hợp có sự thay đổi chủ dự án đầu tư trong trường hợp chia, tách, hợp nhất, sáp nhập cũng như trong trường hợp chuyển nhượng dự án bất động sản” - PGS.TS Viên Thế Giang đánh giá.
Cũng theo PGS.TS. Viên Thế Giang, tính thanh khoản yếu là một trong những điểm yếu cần được khắc phục trong chiến lược khôi phục và tăng cường tính thanh khoản cho thị trường bất động sản ở Việt Nam. Như vậy, phát triển hợp đồng kỳ hạn có tác động trực tiếp cải thiện tính thanh khoản và phòng ngừa rủi ro kinh doanh bất động sản. Cụ thể, hợp đồng kỳ hạn giúp doanh nghiệp bất động sản giúp doanh nghiệp bất động sản một mặt tìm kiếm khách hàng có nhu cầu tạo lập chỗ ở, đồng thời cũng tìm kiếm được nhà đầu tư tiềm năng thông qua có thể ký kết các hợp đồng chuyển nhượng (quyền sử dụng đất) hoặc hợp đồng mua bán nhà chung cư với mức giá giá thỏa thuận trong tương lai.
Đối với người mua bất động sản, hợp đồng kỳ hạn giúp phòng ngừa rủi ro do biến động về giá bất động sản.
PGS.TS. Viên Thế Giang cho rằng, khác với các dự án đầu tư kinh doanh khác, thời gian của dự án bất động sản thường kéo dài và chịu sự tác động của các thị trường khác (như thị trường vật liệu xây dựng), tiến độ thực hiện quy hoạch hệ thống hạ tầng phục vụ cho nhu cầu con người (như mua sắm và ăn uống, trường học, bệnh viện...) nên sự biến động giá bất động sản thường khó đoán định do phụ thuộc vào các tín hiệu thị trường, biến động chính sách kinh tế vĩ mô của chính phủ...
“Do đó, khi lựa chọn hợp đồng kỳ hạn, người mua nhà sẽ tránh được các rủi ro về giá so với tham gia hợp đồng mua bán bất động sản hình thành trong tương lai” – PGS.TS. Giang nêu.
Cũng theo PGS.TS. Viên Thế Giang, hợp đồng kỳ hạn là một loại chứng khoán có thể chuyển nhượng vì vậy việc phát triển hợp đồng kỳ hạn góp phần thúc đẩy tính thanh khoản của thị trường bất động sản.
Tuy nhiên, Hợp đồng kỳ hạn là một loại chứng khoán phái sinh mà giá trị của nó phụ thuộc vào giá trị hoặc mức độ sinh lời của một tài sản. Đối với lĩnh vực bất động sản, việc phát triển chứng khoán phái sinh, trong đó có hợp đồng kỳ hạn còn gặp nhiều khó khăn, do thị trường bất động sản Việt Nam còn nhiều bất cập, hạn chế.
Các quy định pháp luật liên quan đến xác định giá trị của bất động làm căn cứ xác định giá của chứng khoán còn chưa rõ ràng, nhất là giao dịch bất động sản phát sinh trực tiếp giữa chủ dự án với người mua bất động sản (đối với bất động sản hình thành trong tương lai); sàn giao dịch bất động sản chưa làm tốt vai trò trung gian và tăng cường tính minh bạch; thị trường thuê mua bất động sản chưa phát triển cộng với tình trạng hàng tồn kho lớn là những rào cản để phát triển hợp đồng kỳ hạn trong lĩnh vực bất động sản.
“Vì vậy, để hình thành sản phẩm chứng khoán phái sinh trong lĩnh vực bất động sản cần nhanh chóng hoàn thiện thể chế cho thị trường bất động sản vận hành, trong đó, kiểm soát hiệu quả giao dịch bất động sản để xác định giá bất động sản là tài sản cơ sở của chứng khoán phái sinh là vấn đề quan trọng cần phải làm ngay” – PGS.TS. Viên Thế Giang bày tỏ.
Pháp luật về kinh doanh chứng khoán phái sinh tại các công ty chứng khoán Việt Nam hiện nay
Theo PGS.TS. Phạm Thị Giang Thu – Giảng viên cao cấp Trường Đại học Luật Hà Nội, với hơn 6 năm hình thành và phát triển, thị trường chứng khoán phái sinh Việt Nam đã ghi nhận những bước chuyển mình tích cực, đánh dấu sự trưởng thành và phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam.
Từ sản phẩm chứng khoán phái sinh đầu tiên - Hợp đồng tương lai chỉ số VN30 2017, các sản phẩm chứng khoán phái sinh đã thu hút được sự quan tâm của đông đảo các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. Sự phát triển của thị trường chứng khoán phái sinh Việt Nam trong thời gian qua chứng minh sự nỗ lực của cơ quan nhà nước cũng như sự am hiểu và ủng hộ rộng rãi của các chủ thể kinh doanh chứng khoán, nhà đầu tư.
Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh chứng khoán phái sinh của công ty chứng khoán được trải dài từ Luật chứng khoán đến các Nghị định, Thông tư, Quyết định, Hướng dẫn, Quy chế của các cơ quan quản lý chuyên trách trong lĩnh vực chứng khoán nói chung và chứng khoán phái sinh nói riêng, như: Chính phủ, Bộ Tài Chính, Ủy ban chứng khoán nhà nước, Sở giao dịch Chứng khoán Việt Nam, Tổng công ty lưu ký và bù trừ chứng khoán Việt Nam.
Để được thực hiện các hoạt động kinh doanh trên thị trường chứng khoán phái sinh, công ty chứng khoán phải đáp ứng một số quy định về điều kiện gia nhập thị trường như: điều kiện về vốn, điều kiện về nhân sự, điều kiện về hệ thống kết nối, điều kiện về văn bản nội bộ công ty, điều kiện về quản trị công ty.
Theo đó, Công ty phải có vốn điều lệ, vốn chủ sở hữu tối thiểu 800 tỷ đồng đối với hoạt động môi giới chứng khoán phái sinh; tối thiểu 600 tỷ đồng đối với hoạt động tự doanh chứng khoán phái sinh; tối thiểu 250 tỷ đồng đối với hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán phái sinh...
Trường hợp công ty Chứng khoán muốn đăng ký trở thành thành viên bù trừ chứng khoán phái sinh thì pháp luật đòi hỏi một điều kiện cao hơn: thành viên bù trừ trực tiếp cần có vốn điều lệ, có vốn chủ sở hữu tối thiểu từ 900 tỷ đồng trở lên; thành viên bù trừ chung cần có vốn điều lệ, có vốn chủ sở hữu tối thiểu từ 1.200 tỷ đồng trở lên; tỷ lệ vốn khả dụng đạt tối thiểu 260% liên tục trong 12 tháng gần nhất; hệ số nợ trên vốn chủ sở hữu trên báo cáo tài chính năm gần nhất không quá 05 lần...
Đối với vấn đề nhân sự quản trị và nhân sự thực hiện trực tiếp các hoạt động kinh doanh chứng khoán phái sinh của công ty chứng khoán phải được cấp chứng chỉ hành nghề chứng khoán phù hợp với quy định của pháp luật và chứng chỉ chuyên môn về chứng khoán phái sinh, trong đó gồm: Giám đốc (Tổng Giám đốc), Phó Giám đốc (Phó Tổng Giám đốc) phụ trách nghiệp vụ và tối thiểu 05 nhân viên cho mỗi hoạt động kinh doanh chứng khoán phái sinh dự kiến đăng ký...
Điều kiện hoạt động kinh doanh chứng khoán phái sinh của công ty chứng khoán: Công ty chứng khoán phải tuân thủ nghiêm chế độ báo cáo và công bố thông tin trên thị trường.
PGS.TS. Phạm Thị Giang Thu cho biết, thực trạng tuân thủ pháp luật đối với các công ty chứng khoán đã thực hiện đăng ký kinh doanh trên thị trường chứng khoán phái sinh: số lượng công ty được cấp phép còn ít, với tốc độ chậm.
Tính đến tháng 10/2023, Sở giao dịch chứng khoán Việt Nam ghi nhận 23 công ty chứng khoán thành viên giao dịch thị trường chứng khoán phái sinh trên tổng số 76 công ty chứng khoán đang là thành viên giao dịch của Sở giao dịch chứng khoán Việt Nam, chiếm khoảng 30%...
“Có thể thấy, pháp luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh chứng khoán phái sinh đang quy định khá chặt chẽ về điều kiện khi gia nhập và hoạt động trên thị trường dẫn đến số lượng tổ chức kinh doanh dịch vụ chứng khoán có đủ điều kiện tham gia cung cấp các dịch vụ trên thị trường chứng khoán phái sinh chưa chiếm số lượng lớn. Nếu xét ở góc độ lý thuyết giám sát: mô hình giám sát hỗn hợp22 (giám sát vĩ mô thị trường, giám sát vi mô từng chủ thể kinh doanh chứng khoán), Việt Nam đang áp dụng mô hình này nhưng cách thức áp dụng có thể khác nhau: giám sát trước hay giám sát sau đối với thị trường, với từng chủ thể; áp dụng quy định mở hay quy định đóng về các điều kiện kinh doanh và hoạt động của các chủ thể cũng có thể dẫn đến những kết quả khác nhau trong nội dung cụ thể của hệ thống pháp luật điều chỉnh vấn đề này” - PGS.TS. Phạm Thị Giang Thu cho hay.
Quy định pháp luật tác động tới quyết định tham gia thị trường của nhà đầu tư
Theo ThS. Hồ Bá Tình – Chuyên gia kinh tế - Trưởng phòng nội dung – Cafeland.vn, tại Việt Nam, ngày 10/8/2017, TTCKPS chính thức được khai trương và đi vào vận hành tại Sở Giao dịch chứng khoán (SGDCK) Hà Nội với sản phẩm đầu tiên đưa vào giao dịch là hợp đồng tương lai (HĐTL) chỉ số VN30. Sau gần 6 năm hoạt động, TTCKPS đã có sự tăng trưởng vượt các kỳ vọng cả về quy mô thị trường, số lượng NĐT và sản phẩm.
Tính đến tháng 11/2023, khối lượng giao dịch toàn thị trường đạt 290.617 với tổng giá trị giao dịch đạt trên 32 triệu tỉ đồng. Số lượng tài khoản giao dịch chứng khoán phái sinh vẫn tiếp tục có xu hướng tăng, ghi nhận cuối tháng 9/2023, số lượng tài khoản giao dịch chứng khoán phái sinh đạt 1.414.685 tài khoản tại thời điểm tăng 2,39% so với tháng trước. Đặc biệt số lượng NĐT nước ngoài tăng nhanh. Tháng 7/2023, giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài chiếm 3,47% tổng khối lượng giao dịch trên toàn thị trường so với mức 0,1% vào cuối năm 2017.
Theo đánh giá của ThS. Hồ Bá Tình, sự tham gia của NĐT là tổ chức, đặc biệt tổ chức nước ngoài mặc dù ghi nhận tăng trưởng nhanh nhưng tỷ lệ còn hạn chế.
Nguyên nhân ảnh hưởng tới quyết định tham gia đầu tư của NĐT trên thị trường chứng khoán là do các chi phí, thủ tục gia nhập thị trường. Bên cạnh đó, là các yếu tố về chính sách, môi trường đầu tư, độ mở của thị trường... Đối với NĐT là cá nhân, nguyên nhân do thông tin, tâm lý và hoạt động tư vấn hỗ trợ kiến thức trong đầu tư.
ThS. Hồ Bá Tình cho rằng, với đặc điểm thị trường tài chính – tiền tệ như ở Việt Nam, tạo khung pháp lý chặt chẽ là điều kiện cần thiết. Tuy nhiên, để tạo động lực cho thị trường, đặc biệt cho cá nhân NĐT, cần phải đưa ra các quy định khuyến khích thông qua chính sách hỗ trợ tài chính, thủ tục và tập trung vào nâng cao hiệu quả quản lý thị trường.
Đối với quy định về tiếp cận thị trường: Cần quy định điều kiện đối với từng hoạt động và giảm mức vốn nhằm khuyến khích các TCTC trung gian như CTCK tham gia thị trường.
Bên cạnh đó, cần quy định cụ thể hơn về nhà tạo lập thị trường đối với chứng khoán phái sinh. Hiện nay, nhà tạo lập thị trường được quy định tại Quy chế thành viên TTCKPS tại HNX. Tuy nhiên, nhiều ý kiến cho rằng quy định hiện nay quy định chưa rõ ràng và chưa tạo động lực, điều kiện để hình thành nhà tạo lập thị trường cho TTCKPS. Do đó, Ths Hồ Bá Tình kiến nghị HNX quy định cụ thể hơn về hoạt động tạo lập thị trường và đưa chính sách cụ thể và cơ chế hỗ trợ cho chủ thể tạo lập và giao dịch tạo lập.
Đối với quy định về chi phí liên quan hoạt động đầu tư, đề xuất giảm mức thuế suất đối với thu nhập từ hoạt động đầu tư chứng khoán phái sinh và xem xét chính sách thuế là cân nhắc đến mục tiêu của NĐT.
“Đặc biệt để thu hút, gia tăng NĐT tổ chức, cần thực hiện giải pháp đồng bộ theo khuyến nghị của IOSCO về môi trường pháp lý, sản phẩm đầu tư, minh bạch và độ mở thị trường, cơ chế tham gia và giám sát hoạt động hiệu quả”- Ths. Hồ Bá Tình nói.
Không nên đánh thuế GTGT với chứng khoán
Chia sẻ tại Hội thảo, ông Nguyễn Văn Phụng – CGCC về Thuế và Quản trị Doanh nghiệp cho hay, đến nay, chúng ta đã có 9 sắc thuế cùng với các loại phí, lệ phí, bao quát các hoạt động kinh tế phát sinh, góp phần tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi, bình đẳng, có tính cạnh tranh so với các nước trong thu hút đầu tư và mở rộng thương mại quốc tế.
Tham gia hoạt động tại TTCK có các tổ chức, cá nhân gồm: tổ chức phát hành, nhà đầu tư chứng khoán và các tổ chức, cá nhân khác có liên quan. Cùng với việc tuân thủ Luật Chứng khoán, các tổ chức, cá nhân thực hiện nghĩa vụ thuế theo quy định của pháp luật.
Ông Phụng cho biết, các sắc thuế đánh vào giao dịch hàng hóa, dịch vụ trên thị trường, đây là loại thuế mà người nhập khẩu, người bán trực tiếp nộp thuế và bằng mọi cách tính đủ và cộng vào giá bán để đẩy cho người tiêu dùng phải gánh chịu. Điển hình là thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu (XNK), Thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB), Thuế doanh thu, Thuế giá trị gia tăng (GTGT)…
Hiện nay, tại Việt Nam, thuế GTGT có phạm vi điều chỉnh rộng, áp dụng đối với hầu hết các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ được nhập khẩu, sản xuất, cung ứng và tiêu thụ. Trong khi đó, thuế TTĐB thường áp dụng đối với số ít hàng hóa, dịch vụ có lựa chọn nhằm thực hiện đồng thời 2 mục tiêu là tăng thu ngân sách và thực hiện công cụ điều tiết, định hướng tiêu dùng.
“Quan điểm của chúng ta trong thiết kế chính sách thuế GTGT là không đưa vào diện chịu thuế đối với 26 nhóm hàng hóa, dịch vụ. Đối tượng thuộc diện không chịu thuế GTGT khác biệt hoàn toàn với trường hợp thuế suất 0%, đó là sẽ không được hoàn thuế, không được khấu trừ thuế GTGT đầu vào đã trả, đã nộp để sản xuất, cung ứng ra hàng hóa, dịch vụ thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT đầu ra”- ông Phụng cho hay.
Cũng theo ông Phụng, trong số 26 nhóm hàng hóa, dịch vụ thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT, phần lớn là các sản phẩm, dịch vụ thuộc lĩnh vực tài chính, tín dụng, ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán… Lý giải về quy định này ông Phụng cho rằng: Các hoạt động thuộc lĩnh vực này không tạo ra giá trị gia tăng cho nền kinh tế. Việc không áp thuế GTGT sẽ tạo cơ hội cho việc giảm chi phí vốn cho nền kinh tế.
Với khung khổ pháp luật như hiện hành, Bộ Tài chính đã tổ chức công tác nghiên cứu thực tiễn, tham vấn ý kiến các tổ chức, cá nhân, cơ quan có liên quan. Trên cơ sở đó, Bộ Tài chính đã có văn bản hướng dẫn về thuế đối với thu nhập từ chuyển nhượng hợp đồng tương lai trên thị trường chứng khoán phái sinh (Công văn số 11133/BTCCST ngày 21/08/2017).
Nội dung của văn bản này ngoài việc viện dẫn các quy định hiện hành của pháp luật về thuế GTGT, thuế TNDN đối với chứng khoán, còn có nội dung hướng dẫn sâu hơn về thuế TNCN. Theo đó, với quan niệm phái sinh cũng là chứng khoán nên thuế suất thuế TNCN sẽ là 0,1% theo như Luật đã quy định. Vấn đề là xác định thu nhập thế nào, bao nhiêu tiền... sẽ theo thời điểm khớp lệnh mua/bán Hợp đồng tương lai.
Ví dụ: Hợp đồng lương lai (HĐTL) chỉ số cổ phiếu VN30F1708 được xây dựng có hệ số nhân là 100.000 đồng. Tỷ lệ ký quỹ ban đầu của HĐTL này do Trung tâm Lưu ký chứng khoán Việt Nam công bố là 10%.
Lúc 9 giờ ngày 16/8/2017, nhà đầu tư A khớp lệnh mua 10 HĐTL VN30F1708 với giá là 750 điểm chỉ số. Nhà đầu tư cá nhân A phải nộp số thuế TNCN trong giao dịch mua là: 750 x 100.000 x 10 x 10%/2 x 0,1% = 37.500 (đồng).
Lúc 10h ngày 16/8/2017, nhà đầu tư A khớp lệnh bán 10 HĐTL VN30F1708, giá khớp lệnh của HĐTL nói trên lúc này giảm xuống còn 720 điểm. Nhà đầu tư cá nhân A phải nộp số thuế TNCN trong giao dịch bán này là: 720 x 100.000 x 10 x 10%/2 x 0.1% = 36.000 (đồng).”
Ông Phụng đặt câu hỏi, vậy khi nào chúng ta có thể hướng dẫn được nghĩa vụ thuế, cách tính thuế, cách xác định thu nhập đối với các loại Hợp đồng phái sinh mà pháp luật đang quy định đó là “Chứng khoán phái sinh”? Chúng ta có thể có được cách tiếp cận khác để báo cáo với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền về các loại phái sinh đã và đang có trên thị trường trong và ngoài nước, trong bối cảnh Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng và nền kinh tế thế giới hay không?