Hôm nay, diễn ra Hội thảo khoa học quốc tế về dinh dưỡng học đường năm 2025
Sáng ngày 14/8, tại Hà Nội, Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương cùng Bộ Y tế, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Đài Truyền hình Việt Nam phối hợp tổ chức Hội thảo khoa học quốc tế về dinh dưỡng học đường năm 2025.
Theo tài liệu được công bố tại Hội thảo "Phát triển ngành sữa Việt Nam giai đoạn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045" do Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương (Bộ Công Thương) tổ chức mới đây cho thấy: Trong những năm qua, công tác dinh dưỡng học đường đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận.
Cùng với đó, việc hoàn thiện hành lang pháp lý từng bước được hình thành với các chiến lược, chương trình, đề án như: Chiến lược quốc gia về Dinh dưỡng giai đoạn 2021 - 2030 và tầm nhìn đến năm 2045; Chương trình Chăm sóc dinh dưỡng 1.000 ngày đầu; Đề án Bảo đảm dinh dưỡng hợp lý và tăng cường hoạt động thể lực cho trẻ em, học sinh, sinh viên giai đoạn 2015 - 2025; Chương trình Sức khỏe học đường giai đoạn 2021 - 2025 và Chương trình y tế trường học trong các cơ sở giáo dục mầm non và phổ thông gắn với y tế cơ sở giai đoạn 2021 - 2025.

Chương trình Sữa học đường đã mang lại niềm vui được uống sữa cho học sinh ở những địa bàn còn gặp nhiều khó khăn - Ảnh: CAND
Nhờ những chính sách kịp thời này, theo đánh giá của nhiều chuyên gia, tầm vóc người Việt đã có sự cải thiện rõ rệt, chiều cao trung bình của nam thanh niên 18 tuổi đạt 168,1 cm (tăng 3,7 cm so với năm 2010), nữ đạt 156,2 cm (tăng 2,6 cm). Tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi ở lứa tuổi học đường cũng giảm đáng kể, từ 23,4% năm 2010 xuống còn 14,8% vào năm 2020.
Cùng với đó, tỷ lệ kiểm soát suy dinh dưỡng thấp còi ở lứa tuổi học đường từ 519 tuổi cũng giảm đáng kể, cụ thể năm 2020 còn 14,8% (so với năm 2010 là 23,4%). Đóng góp vào những thành tựu này, không thể không kể đến vai trò của các sản phẩm sữa tươi trong các chương trình can thiệp dinh dưỡng tại trường học.
Theo đó, Chương trình Sữa học đường theo Quyết định số 1340/QĐ-TTg đã giúp trẻ em tại các tỉnh, thành, đặc biệt là ở các vùng khó khăn, được tiếp cận với nguồn dinh dưỡng quý giá, góp phần quan trọng cải thiện tình trạng dinh dưỡng. Tiếp theo là “Mô hình điểm bữa ăn học đường bảo đảm dinh dưỡng hợp lý và tăng cường hoạt động thể lực” cho học sinh, được triển khai thí điểm tại 10 tỉnh, thành thuộc 5 vùng sinh thái trải dài trên toàn quốc.
Trong mô hình này, sữa tươi đã được đưa vào cấu phần bữa ăn một cách khoa học với tần suất 05 ly/tuần và được đánh giá là một giải pháp toàn diện, mang tính cách mạng về nâng cao tầm vóc người Việt. Mô hình điểm đã cung cấp cơ sở khoa học và thực tiễn để chuẩn hóa, tiến tới ban hành các quy chuẩn, tiêu chuẩn về bữa ăn học đường.
Dù gặt hái được nhiều thành tựu đáng ghi nhân, song dinh dưỡng học đường vẫn đối diện với nhiều khó khăn, hạn chế. Theo đó, tỷ lệ suy dinh dưỡng, thấp còi vẫn còn cao ở vùng nông thôn, miền núi, vùng khó khăn và dân tộc thiểu số trong khi tỷ lệ thừa cân, béo phì ở lứa tuổi học đường đã tăng gấp đôi, từ 8,5% năm 2010 lên tới 19,0% vào năm 2020, đặc biệt tăng nhanh ở thành thị và khu vực phát triển (chiếm tới 26,8% năm 2020). Tình trạng thiếu vi chất dinh dưỡng ở trẻ em đã được cải thiện đáng kể, tuy nhiên vẫn phổ biến và khá cao, nhất là ở nhóm đối tượng có nguy cơ cao như trẻ em và ở vùng khó khăn, vùng sâu vùng xa, gây ảnh hưởng đến sức khỏe, phát triển và học tập của học sinh.
Bên cạnh đó, chất lượng bữa ăn học đường chưa đồng đều, hiện vẫn thiếu về số lượng, mất cân đối về chất lượng còn tồn tại ở một số vùng, đặc biệt vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số. Tình trạng ăn uống bất hợp lý tại vùng đô thị do xu hướng ăn nhiều thịt, dầu mỡ, các chất đạm, chất béo, các loại thực phẩm tinh chế, thực phẩm chế biến sẵn (có chứa nhiều muối), đồ ăn nhanh và nước giải khát có đường đã và đang hình thành những thói quen ăn uống không lành mạnh làm gia tăng các rối loạn chuyển hóa dinh dưỡng và bệnh mạn tính không lây nhiễm.
Công tác quản lý an toàn thực phẩm và môi trường dinh dưỡng học đường còn bất cập: Hoạt động của căng tin, các hàng quán xung quanh cổng trường chưa được kiểm soát chặt chẽ. Việc quảng cáo, kinh doanh các sản phẩm không có lợi cho sức khỏe vẫn còn diễn ra. Đồng thời, nhiều trường học còn thiếu không gian và điều kiện để tổ chức các hoạt động thể lực cho học sinh.
Những tồn tại nêu trên theo đánh giá xuất phát từ các thách thức chung về cơ chế chính sách, nguồn lực, nhân lực và công tác truyền thông.