Hơn 50.000 hộ dân ĐBSCL vẫn 'khát' nước sạch: Thách thức vùng sông nước
Dù là vùng sông ngòi chằng chịt, Đồng bằng sông Cửu Long vẫn có hàng chục nghìn hộ dân thiếu nước sinh hoạt, cho thấy những bất cập trong quy hoạch và đầu tư cấp nước nông thôn.
Hàng chục nghìn hộ dân phía Nam “khát” nước sạch
Đây là nội dung được chia sẻ tại Diễn đàn “Vai trò của nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn trong phát triển nông nghiệp bền vững, xây dựng nông thôn văn minh” do Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) phối hợp với Báo Nông nghiệp và Môi trường tổ chức tại TP.HCM.
Ông Phạm Văn Mạnh, Phó viện trưởng Viện Quy hoạch Thủy lợi miền Nam cho biết, công tác cấp nước sạch nông thôn tại Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) hiện còn nhiều bất cập, nhất là ở khâu quy hoạch, quản lý khai thác và giám sát nguồn nước.
Theo ông, quy hoạch cấp nước ở nhiều địa phương hiện nay chưa đồng bộ, quá trình đô thị hóa nhanh khiến hệ thống cấp nước không theo kịp nhu cầu, trong khi công tác theo dõi, kiểm soát chất lượng nước còn hạn chế. Nhiều nơi chưa xây dựng phương án tổng thể cho khai thác và cấp phép nguồn nước, dẫn đến lúng túng khi xảy ra hạn hán hay xâm nhập mặn.

Diễn đàn “Vai trò của nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn trong phát triển nông nghiệp bền vững, xây dựng nông thôn văn minh”.
Thực tế cho thấy, tại một số vùng như Cà Mau, người dân vẫn phải sử dụng nước mưa hoặc nước trữ tạm thời. Một số tỉnh như Bến Tre, Cà Mau, Hậu Giang đã đầu tư xây dựng hồ chứa phân tán, song quy mô còn nhỏ, chưa đáp ứng đủ nhu cầu.
Thống kê cho thấy, trong giai đoạn 2015-2016, hạn hán và xâm nhập mặn khiến hơn 200.000 hộ dân thiếu nước sạch. Nhờ chuẩn bị sớm và tăng cường đầu tư, đến các đợt hạn mặn 2019-2020 và 2023-2024, số hộ thiếu nước giảm xuống chỉ còn vài chục nghìn, cho thấy hiệu quả của công tác dự báo và phòng ngừa từ xa.
Tuy nhiên, ông Mạnh nhận định, thu hút đầu tư tư nhân vào lĩnh vực này vẫn là bài toán khó, do giá nước thấp, chi phí đầu tư lớn, đặc biệt tại vùng sâu, vùng xa. Thêm vào đó, ý thức tiết kiệm nước của người dân còn hạn chế, gây lãng phí và ảnh hưởng đến tính bền vững của hệ thống.
Đồng tình ý kiến, ông Trần Bá Hoằng, Viện trưởng Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam cho hay, nhờ hệ thống công trình thủy lợi được đầu tư, hiện phạm vi xâm nhập mặn đã thu hẹp còn 40 km từ cửa biển, giảm mạnh so với mức 60-70 km của năm 2016. Cùng với đó, số hộ dân thiếu nước sinh hoạt giảm từ 200.000 hộ xuống còn 76.000 hộ trong giai đoạn 2023-2024.
Dù vậy, việc đầu tư công trình cấp nước vẫn gặp nhiều khó khăn do thiếu nguồn nước ngọt, chi phí cao và dân cư phân tán. “Hiện còn 53.500 hộ dân không thể cấp nước tập trung, buộc phải tính đến mô hình dự trữ nước tại hộ hoặc cấp nước phi tập trung”, ông Hoằng nói.
Cần cơ chế để “khát” không còn là chuyện thường niên
Theo Phó viện trưởng Viện Quy hoạch Thủy lợi miền Nam, đã đến lúc cần nhìn nhận nước là một yếu tố của nền kinh tế, chứ không chỉ là dịch vụ công ích. Việc phát triển kinh tế tài nguyên nước phải gắn với tư duy quản lý hiện đại, chuyển từ hành chính thụ động sang quản lý theo cơ chế thị trường. Điều này đòi hỏi hoàn thiện thể chế, chính sách và tính đúng, tính đủ giá nước, tương tự như biểu giá điện. Khi giá nước được phản ánh sát giá trị thật, mới có thể thu hút đầu tư tư nhân và khuyến khích người dân sử dụng tiết kiệm, hiệu quả hơn.
Bên cạnh đó, cần có công cụ kinh tế và chế tài môi trường, như thu phí xả thải hoặc thuế tài nguyên nước, để khuyến khích tiết kiệm và giảm ô nhiễm. Đồng thời, tăng cường ứng dụng công nghệ trong quản lý, giám sát khai thác, và nâng cao nhận thức cộng đồng về giá trị của nước, yếu tố sống còn trong thích ứng biến đổi khí hậu vùng ĐBSCL.
Song song đó, ông Trần Bá Hoằng kiến nghị Bộ Nông nghiệp và Môi trường tiếp tục quan tâm, tăng cường chính sách hỗ trợ để mở rộng mạng lưới cấp nước sạch nông thôn, hướng tới mục tiêu đến năm 2030 có 80% hộ dân nông thôn được tiếp cận nguồn nước an toàn.
Ông Lương Văn Anh, Phó cục trưởng Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho rằng, để đạt được mục tiêu này, cần sự tham gia đồng bộ của các Bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp và người dân, trong đó trọng tâm là thu hút đầu tư xã hội hóa vào lĩnh vực cấp nước nông thôn.
Hiện Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang hoàn thiện dự thảo Nghị định mới về quản lý nước sạch nông thôn, quy định cụ thể từ đầu tư, vận hành đến cơ chế huy động vốn xã hội hóa. Nghị định này kỳ vọng sẽ tạo hành lang pháp lý thông suốt, khắc phục tình trạng chồng chéo và thiếu nhất quán hiện nay.
Ngoài ra, ông Lương Văn Anh nhấn mạnh, Nhà nước cần ưu tiên nguồn lực đầu tư cho vùng khó khăn, miền núi, biên giới, hải đảo, nơi doanh nghiệp chưa thể tiếp cận do chi phí cao, hiệu quả thấp. Bên cạnh đó, việc huy động cộng đồng tham gia, đóng góp công sức, đất đai và kinh phí tại chỗ là yếu tố then chốt để mở rộng mạng lưới cấp nước bền vững.