Hồn đất
Cách đây vài chục năm, đám trẻ con hầu như đứa nào cũng từng có một món đồ chơi khá thú vị là con giống bằng đất hay ông tiến sĩ giấy. Một mảnh đất thó dán giấy màu sặc sỡ, ra hình ông tiến sĩ vinh quy, gửi gắm một ước vọng học hành đỗ đạt...
Theo thời gian, những món đồ chơi dân gian ấy giờ đã dần mai một. Bởi trẻ con giờ có nhiều thứ để vui chơi hơn, không còn tìm kiếm thú vui từ cục đất ấy nữa. Trẻ không chơi, nhưng làm đồ chơi từ đất thó thì vẫn có người còn giữ nghề.
Năm nay đã ngót 70 tuổi, nhưng ông Phùng Đình Giáp ở làng cổ Đông Khê vẫn miệt mài lưu dấu những giá trị truyền thống của xứ Kinh Bắc. Nặn đất từ năm 8, 9 tuổi, đến nay, cụ Giáp vẫn miệt mài với những con giống bằng đất thó.
Ông Phùng Đình Giáp. Ảnh: Ngọc Trâm
Trong kí ức của ông Giáp, phỗng đất từng là món đồ chơi yêu thích của lũ trẻ thôn quê. Mỗi độ rằm tháng Tám, bên cạnh mâm ngũ quả, ông tiến sĩ, đèn ông sao, nhiều gia đình ở một số tỉnh phía Bắc thường bày một bộ phỗng đất. Đó là hình ảnh đã gắn liền với tuổi thơ của biết bao thế hệ người Việt.
Phỗng đất có hình dáng đơn sơ, hồn nhiên và giản dị. Các nhân vật phỗng được nặn không góc cạnh mà đường nét rất mềm mại. Nhìn hấp dẫn trẻ em và mang nét dân gian.
Theo ông Giáp một bộ phỗng đất gồm năm nhân vật: Con chim bay trên trời thể hiện cho khát vọng hòa bình; con Rùa gắn với biển cả bao la và hình tượng con Rùa trong tâm trí người Việt còn là biểu tượng thiêng liêng được thần thánh hóa; nhân vật người già và em bé nói lên sự nối tiếp truyền thống; còn nhân vật phỗng hình Phật ở vị trí trung tâm mang ý nghĩa tâm linh, giáo dục con cháu sống hiền lành, đúng mực.
Đó là cách mà ông cha ta đã gửi gắm điều hay, ý đẹp, những giá trị văn hóa truyền thống lâu đời vào cỗ phỗng, để dạy dỗ, nhắc nhở con cháu về lối sống và đạo lý làm người.
Một số sản phẩm tượng đất thó được sáng tạo mới. Ảnh: Lê Bích
Theo truyền thống, phỗng đất chỉ bày bán vào dịp Rằm tháng Tám hoặc Tết Nguyên đán. Do lợi ích kinh tế đem lại không cao, nhiều người dân trong làng chuyển dần sang làm vàng mã. Nghề làm phỗng đất cũng vì thế mà mai một dần. Canh cánh nghề cổ truyền của cha ông, ông Giáp vẫn quyết tâm bám nghề.
Ông nói: “Nặn phỗng đất là nghề gia truyền của gia đình tôi, đến tôi là đời thứ ba. Chẳng biết phỗng đất ra đời từ bao giờ, nhưng tôi nhất định sẽ không để phỗng biến mất. Cả nhà tôi gồm vợ và con trai tôi vẫn đã, đang và sẽ nặn phỗng đất. Trong bối cảnh người ta bây giờ ngày càng ít mặn mà với các món đồ dân gian, tôi lại càng phải giữ gìn hơn”.
Tuy mang hình dáng đơn giản, nhưng hành trình từ hòn đất trở thành ông phỗng đòi hỏi sự công phu, tỉ mỉ. Đất dùng để làm phỗng phải là đất thó (hay còn gọi là đất sét) được đào sâu dưới lòng đất, mang về phơi khô rồi giã nhỏ, sàng lấy phần mịn để ngâm cùng giấy bản cho nhuyễn.
Giấy được ngâm trong nước khoảng một tuần cho mùn ra, tạo thành chất sền sệt đặc quánh. Giấy và bột đất thó được trộn với nhau bằng tay, đến khi hòa quyện tới độ dẻo, mịn, không dính tay thì đạt yêu cầu. Tùy theo thời tiết và kích cỡ mà sau khi nặn xong, tượng phỗng sẽ được đem phơi nắng từ 3 - 5 ngày và hoàn toàn tránh nước.
Ông tiến sĩ giấy. Ảnh: Lê Bích
Tượng đất thó dù không nung nhưng khi hoàn thành, phỗng đất vẫn có độ cứng và bền nhất định. Khi đã khô, tượng phỗng được phủ một lớp hồ trắng. Đó là hỗn hợp của hồ điệp trắng và hồ nếp pha với nước theo một tỷ lệ nhất định, lọc qua khăn cho đến khi thật mịn. Lớp hồ này sẽ giúp cho tượng phỗng đất thêm bóng và đẹp mắt hơn.
Công đoạn cuối cùng là vẽ màu. Tông màu chủ đạo để tô cho phỗng là đỏ, vàng, xanh, đen. Đây là những gam màu truyền thống, khi vẽ lên sẽ tạo cảm giác thân thuộc, gắn bó. Ngoài ra, gia đình ông Giáp còn sản xuất thêm loại phỗng không vẽ màu mà chỉ được phủ hồ trắng rồi đánh bóng bằng cật tre, tuy đơn giản nhưng lại được nhiều người ưa chuộng.
Phỗng đất có bề ngoài đơn giản nhưng đòi hỏi người thợ phải có kỹ thuật nặn tinh xảo và cầu kỳ. Từng công đoạn, từ chuẩn bị đất sét đến vẽ màu đều được hai nghệ nhân già làm một cách tỉ mỉ, cẩn thận. Ông Giáp dùng kinh nghiệm và đôi bàn tay khéo léo để cảm nhận độ mịn của đất và tạo nên tổng thể hình dáng của phỗng bằng việc nắn, vuốt.
Vài năm gần đây, ngoài một vài mẫu cơ bản, ông Giáp đã làm thêm một số mẫu tượng mới. Đó là nhờ một số họa sĩ lui tới, tư vấn cho ông những mẫu mới. Người lui tới nhiều có thể kể đến họa sĩ Đức Phương (mà anh em quen gọi bằng cái tên thân mật là Phương Giò). Qua tư vấn của họa sĩ, người nghệ nhân đã sáng tạo ra một số mẫu mới mang tính nghệ thuật mà vẫn giữ được vẻ hồn nhiên ngây ngô của dân gian như: chân nến theo hình chó đá, lợn đàn, ngựa, gà, đồ ứng dụng như gạt tàn hình con giống, v.v...
Đường nét trên tượng phỗng không góc cạnh mà mềm mại, tự nhiên. Phỗng đất không có quá nhiều chi tiết phức tạp mà toát lên vẻ dân dã, thanh thoát, mang đậm hồn cốt của làng quê Việt Nam xưa.
Hiện nay, dù đồ chơi hiện đại đang lấn át dần những sản phẩm truyền thống, nhưng phỗng đất vẫn chiếm một vị trí quan trọng trong lòng những con người trân quý nghệ thuật dân tộc. Bởi nó không chỉ là một phần ký ức tuổi thơ của biết bao thế hệ mà còn cất giữ những giá trị văn hóa lâu đời. Phỗng đất không chỉ là đồ chơi Trung thu của trẻ con ngày xưa mà còn cất giữ những giá trị văn hóa truyền thống, thể hiện hồn cốt quê hương, sự thân thuộc đầm ấm.
Nguồn Công Luận: https://congluan.vn/hon-dat-post151062.html