Hợp tác đại học - doanh nghiệp cần tầm nhìn dài hạn
Hiện chưa có hành lang pháp lý, cơ chế chính sách khuyến khích doanh nghiệp và cơ sở giáo dục đại học hợp tác theo nguyên tắc đôi bên cùng có lợi.
Chia sẻ thực trạng, đặc biệt những rào cản trong hợp tác giữa đại học và doanh nghiệp hiện nay, PGS.TS Lưu Bích Ngọc - Chánh Văn phòng Hội đồng Quốc gia Giáo dục và Phát triển nhân lực đưa giải pháp nhằm khắc phục bất cập trên.
Còn nhiều hạn chế
- PGS nhận định thế nào về thực trạng hợp tác giữa cơ sở giáo dục đại học và doanh nghiệp ở Việt Nam?
- Thời gian qua, mối liên kết giữa trường đại học - doanh nghiệp là nội dung nhận được sự quan tâm đặc biệt của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, các bộ ngành liên quan và đạt được một số kết quả.
Theo báo cáo của Vụ Giáo dục Đại học (Bộ GD&ĐT) về kết quả khảo sát liên quan đến hợp tác giữa đại học và doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghệ thông tin (CNTT) (tháng 6/2021), trong số 135 cơ sở giáo dục đại học có báo cáo gửi về (chiếm khoảng 50% số cơ sở giáo dục đại học hiện có), thì 40,7% cơ sở đào tạo có hoạt động hợp tác với doanh nghiệp cả trong lĩnh vực CNTT và lĩnh vực khác; 44,4% chỉ có hợp tác trong các lĩnh vực khác; 8,1% chỉ có hợp tác trong lĩnh vực CNTT; 6,7% không có bất kỳ hoạt động hợp tác nào với doanh nghiệp, tập trung chủ yếu vào cơ sở đào tạo các khối ngành đặc thù thuộc lĩnh vực nghệ thuật. Tổng số doanh nghiệp có hợp tác với cơ sở đào tạo là 5.452. Có 19/135 cơ sở đào tạo hợp tác với trên 100 doanh nghiệp…
Việc hợp tác giữa các trường đại học và doanh nghiệp ở nước ta còn hạn chế. Hầu hết mối liên kết nhà trường và doanh nghiệp đều xuất phát từ nhu cầu trước mắt, kế hoạch ngắn hạn của doanh nghiệp chứ không phải từ chiến lược dài hạn.
Kết quả khảo sát của Vụ Giáo dục Đại học năm 2021 cho thấy, hoạt động hợp tác nổi bật nhất giữa trường đại học và doanh nghiệp trong đào tạo là tiếp nhận sinh viên đến kiến tập/thực tập (gần 90%). Các đơn vị không tiếp nhận sinh viên thực tập chủ yếu rơi vào các viện hoặc trung tâm nghiên cứu.
Lĩnh vực hợp tác chiếm vị trí thứ 2 là tài trợ cho hoạt động liên quan đến đào tạo và ngoại khóa bao gồm: Trao học bổng sinh viên, tổ chức ngày hội việc làm và tuyển dụng sinh viên mới tốt nghiệp (gần 70%). Đây cũng là hoạt động mà đa số cơ sở đào tạo hướng tới nhằm tìm kiếm đầu ra cho sinh viên của mình.
Việc các doanh nghiệp tham gia góp ý cho xây dựng chương trình đào tạo, giảng dạy dừng lại ở mức độ 30%, tập trung chủ yếu vào việc chia sẻ kinh nghiệm và đào tạo kỹ năng cho sinh viên, đánh giá đầu ra và xây dựng chuẩn đầu ra trong chương trình đào tạo.
Số lượng thỉnh giảng từ các doanh nghiệp đạt tỷ lệ dưới 30%. Thực tế, tham gia góp ý chương trình đào tạo, đưa ra tiêu chí đánh giá chuẩn đầu ra cho sinh viên là cần thiết để có thể tạo ra nguồn nhân lực đáp ứng được đòi hỏi của thị trường lao động. Có thể thấy doanh nghiệp chưa thực sự quan tâm đến vai trò của mình đối với quá trình đào tạo nguồn nhân lực.
Rào cản trong quan hệ hợp tác
- Đâu là rào cản trong quan hệ hợp tác đại học và doanh nghiệp hiện nay?
- Còn không ít khó khăn, rào cản trong quan hệ hợp tác giữa đại học và doanh nghiệp; trong đó có hạn chế từ cơ chế chính sách; các cơ sở đại học và cả doanh nghiệp.
Về cơ chế chính sách, hoạt động hợp tác giữa cơ sở giáo dục đại học và doanh nghiệp được đề cập và khuyến khích trong nhiều văn bản pháp luật. Điều 12, Luật số 34/2018/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học đã nêu rõ cần thực hiện xã hội hóa giáo dục đại học, ưu tiên doanh nghiệp đầu tư vào giáo dục đại học, khuyến khích doanh nghiệp tiếp nhận sinh viên thực tập, cán bộ hợp tác nghiên cứu và đào tạo.
Điều 16, Nghị định số 99/2019/NĐ-CP ngày 30/12/2019 hướng dẫn các cơ sở giáo dục đại học được ban hành quy định nội bộ về hoạt động khoa học công nghệ và khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo.
Thực tế triển khai hợp tác giữa trường đại học và doanh nghiệp cũng còn một số khó khăn về pháp lý. Ví dụ, còn chồng lấn giữa các luật (như Luật Doanh nghiệp, Luật Quản lý, sử dụng tài sản công…) trong khi chưa có Nghị định quy định rõ ràng cách áp dụng những luật này cho cơ sở giáo dục đại học khi thực hiện tự chủ trong ký kết hợp tác.
Đối với hình thức hợp tác trong đào tạo, việc mời giảng viên thỉnh giảng đến từ doanh nghiệp vấp phải quy định về bằng cấp, trình độ đối với người tham gia giảng dạy ở bậc đại học (giảng viên thỉnh giảng phải có bằng thạc sĩ khi dạy cho trình độ đại học, phải có bằng tiến sĩ khi dạy cho trình độ cao học); trong khi người có kinh nghiệm thực tiễn tại các doanh nghiệp lại không có trình độ bằng cấp như vậy.
Kinh phí nếu dùng ngân sách theo quy định của Nhà nước cho 1 giờ giảng thường thấp. Các cơ sở giáo dục đại học thường phải sử dụng nguồn kinh phí khác thay thế để có thể mời được người từ doanh nghiệp (trong khi chi phí mời những đại diện doanh nghiệp lớn không nhỏ).
Cùng đó, hiện chưa có hành lang pháp lý, cơ chế chính sách khuyến khích doanh nghiệp và cơ sở giáo dục đại học hợp tác theo nguyên tắc đôi bên cùng có lợi.
Thứ hai là rào cản từ phía nhà trường. Nhiều cơ sở đào tạo chưa thiết lập được bộ phận chuyên trách về xúc tiến liên kết hợp tác với doanh nghiệp; đa số cán bộ làm kiêm nhiệm, không được tập huấn, bồi dưỡng về kỹ năng và kinh nghiệm đàm phán, hợp tác.
Trình độ sinh viên (ngoại ngữ, kỹ năng) của nhiều trường chưa đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp. Nhiều trường chưa tổ chức được các nhóm nghiên cứu mạnh; nhà khoa học, sinh viên chưa tiếp cận được doanh nghiệp. Mối quan hệ một chiều khá lớn: Doanh nghiệp tìm đến nhà trường chứ nhà trường chưa có điều kiện để tiếp cận doanh nghiệp.
Về xây dựng chương trình đào tạo, dù nhà trường mời doanh nghiệp tham gia, góp ý chỉnh sửa, hoàn thiện nội dung chương trình đào tạo, thậm chí có văn bản ký kết; nhưng thực tế hoạt động này chưa thu hút được sự tâm huyết, quan tâm, sát sao của doanh nghiệp.
Kết quả nghiên cứu mới chỉ áp dụng chủ yếu tại doanh nghiệp mà trường đăng ký thực nghiệm đề tài, chưa triển khai đến các doanh nghiệp khác đã ký kết hợp tác nghiên cứu và chuyển giao công nghệ.
Việc đảm bảo các điều kiện cần thiết để duy trì, phát triển mối quan hệ lâu dài với đối tác còn thiếu, yếu; nguồn kinh phí cho hoạt động hợp tác phát triển nói chung và kinh phí đối ứng cho hoạt động nghiên cứu, trao đổi còn eo hẹp, hạn chế.
Rào cản thứ ba từ phía doanh nghiệp. Đa số doanh nghiệp Việt Nam là loại hình nhỏ và vừa nên nhu cầu, quy mô hợp tác hạn chế. Nhiều doanh nghiệp chỉ nhắm đến lợi ích ngắn hạn, ít quan tâm đến tầm nhìn dài hạn. Vì vậy, để hoạt động kết nối tốt cần có các hình thức tạo lợi ích cho doanh nghiệp…
Tăng cường trách nhiệm nhà trường, doanh nghiệp
- Cần tăng cường trách nhiệm của 2 chủ thể đại học và doanh nghiệp như thế nào để khắc phục các rào cản nói trên?
- Tôi cho rằng, về phía cơ sở giáo dục đại học cần có chiến lược tự nâng cao năng lực (đội ngũ, quản trị nhà trường, đào tạo, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ). Xây dựng chiến lược phát triển nhà trường với định hướng rõ ràng để có lộ trình, bước đi phù hợp trong xây dựng, phát triển mô hình hợp tác với doanh nghiệp.
Thứ hai, cần tham khảo nhu cầu thị trường và doanh nghiệp để xây dựng khung chương trình, giảng dạy, biên soạn, cải tiến giáo trình giảng dạy, hình thức đào tạo, đánh giá sinh viên, nâng cao năng lực tự học của sinh viên sao cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn, doanh nghiệp.
Các trường đại học cần bảo đảm tính tiên tiến, hiện đại của chương trình, phối hợp với doanh nghiệp để nghiên cứu xây dựng chương trình đào tạo phù hợp nhu cầu doanh nghiệp. Cử giảng viên, cán bộ quản lý đến doanh nghiệp học tập, trao đổi kinh nghiệm, tìm ra vướng mắc trong quá trình đào tạo.
Thứ ba, cần tạo mối quan hệ chặt chẽ giữa nhà trường và đơn vị sử dụng lao động để sinh viên có môi trường thực tập, doanh nghiệp sẽ cùng với nhà trường “song giảng”, tức trường dạy lý thuyết, doanh nghiệp dạy thực tiễn.
Thứ tư, huy động sự tham gia của doanh nghiệp vào việc hỗ trợ tài chính, cơ sở vật chất, trang thiết bị giảng dạy và học tập. Tăng cường vai trò của doanh nghiệp đối với cơ sở giáo dục đại học như tham gia vào Hội đồng trường, Ban cố vấn của Hội đồng doanh nghiệp để tiếp nhận khuyến nghị từ doanh nghiệp.
Các cơ sở giáo dục đại học cũng cần xem xét, điều chỉnh, giảm thiểu thời gian đào tạo lý thuyết tại trường; chủ động đề xuất, phối hợp thực hiện nghiên cứu khoa học với doanh nghiệp.
Thứ năm, xây dựng, phát huy vai trò mạng lưới cựu sinh viên, đặc biệt là các cựu sinh viên đang vận hành và làm việc trong khối doanh nghiệp.
Về phía doanh nghiệp, cần nhận thức đầy đủ hơn ích lợi cũng như xu thế tất yếu của mối liên kết giữa trường đại học và doanh nghiệp, từ đó hoạch định cơ chế phối hợp cũng như chiến lược nhân sự hợp lý cho doanh nghiệp mình trong tương lai.
Thiết lập bộ phận chuyên trách để phản biện, góp phần xây dựng, điều chỉnh chương trình đào tạo các trường đại học hướng theo nhu cầu sử dụng nhân lực từ phía doanh nghiệp.
Có chiến lược “nuôi dưỡng”, “ươm mầm” tài năng tại các trường đại học bằng hình thức cung cấp học bổng, đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật, tài chính, tuyển dụng trước và sau tốt nghiệp; đặt hàng cơ sở đào tạo giải quyết những vấn đề cần thiết mà doanh nghiệp đang và sẽ có nhu cầu…
Doanh nghiệp cần chủ động “thâm nhập” toàn diện vào trường đại học để có thêm điều kiện góp ý điều chỉnh chương trình đào tạo cho “ăn khớp” nhu cầu của đơn vị và xã hội.
Thông tin cho các trường đại học về nhu cầu nhân lực của doanh nghiệp mình. Hỗ trợ tài chính, cơ sở vật chất thông qua các hình thức như học bổng cho sinh viên, ký kết hợp đồng tư vấn, nghiên cứu khoa học, xây dựng khu thực hành, giảng đường, phòng thí nghiệm, trang thiết bị cho giảng dạy và học tập.
Cử chuyên gia, chuyên viên, công nhân lành nghề tham gia trực tiếp giảng dạy hoặc hướng dẫn sinh viên trong quá trình thực tập. Tiếp nhận các giảng viên, cán bộ quản lý đến doanh nghiệp học hỏi kinh nghiệm…
Khuyến nghị nhóm chính sách
- Về chính sách, cần làm gì để đại học và doanh nghiệp hợp tác hiệu quả, thực chất?
- Các nhóm chính sách hỗ trợ thúc đẩy hợp tác giữa trường đại học và doanh nghiệp được đề xuất gồm:
Nhóm giải pháp chính sách cải thiện môi trường thông tin, như xây dựng và hoàn thiện hệ thống thông tin quản lý giáo dục đại học (HEMIS); phát triển hệ thống thông tin thị trường lao động (LMIS); xây dựng và hoàn thiện hệ thống truy vết sinh viên tốt nghiệp; tạo cơ chế gắn kết giữa các hệ thống thông tin trên (dưới sự quản lý và điều phối của Bộ GD&ĐT).
Nhóm giải pháp chính sách tạo động lực giữa cơ sở giáo dục đại học và doanh nghiệp, như: Hoàn thiện và tích cực tổ chức, triển khai Khung trình độ quốc gia; mở rộng các dự án tài trợ hiện có, thu hút chương trình tài trợ đổi mới sáng tạo, khuyến khích dự án nghiên cứu trên cơ sở hợp tác giữa cơ sở giáo dục đại học và doanh nghiệp; thực hiện Quyết định 209/QĐ-TTg năm 2021 về “Phê duyệt nhiệm vụ lập quy hoạch mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học và sư phạm giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050”…
Nhóm giải pháp chính sách nâng cao năng lực của cơ sở giáo dục đại học như xây dựng, ban hành các tài liệu hướng dẫn nâng cao năng lực quản trị của cơ sở giáo dục đại học và doanh nghiệp; nâng cao năng lực của cả cơ sở giáo dục đại học, doanh nghiệp trong triển khai quan hệ đối tác công tư (PPP) trong giáo dục đại học.
Nhóm giải pháp chính sách phát triển đại học tự chủ sáng nghiệp, như: Hoàn thiện các quy định về tổ chức, hoạt động của đại học tự chủ sáng nghiệp; mở rộng quyền tự chủ đại học về chuyên môn, tổ chức, nhân sự, tài chính, hợp tác trong nước, quốc tế với cơ sở giáo dục đại học sáng nghiệp; ban hành các chính sách hỗ trợ tài chính, phi tài chính trong triển khai xây dựng các vườn ươm doanh nghiệp thông qua nhiều dự án khác nhau, bao gồm dự án đấu thầu, dự án ODA, dự án PPP.
- Xin cảm ơn PGS!
“Hợp tác với doanh nghiệp trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học đang được quan tâm thúc đẩy để tương xứng tiềm năng của cơ sở giáo dục đại học. Tuy nhiên, đơn đặt hàng của doanh nghiệp còn hạn chế, phần lớn chuyển giao công nghệ đã hình thành và kết quả nghiên cứu các đề tài.
Việc liên kết hợp tác đào tạo gặp khó khăn một phần do các doanh nghiệp chưa hoạch định được kế hoạch nhu cầu sử dụng lao động và vị trí việc làm. Nhiều nơi chỉ thực hiện nhiệm vụ tuyển dụng, xem nhiệm vụ đào tạo là của cơ sở giáo dục và xã hội.
Các tổ chức, doanh nghiệp chưa tích cực tìm hiểu, khai thác và mong muốn hợp tác, phát triển chương trình đào tạo tại cơ sở giáo dục đại học. Hoạt động đào tạo theo địa chỉ/đơn đặt hàng còn quá ít so với nhu cầu xã hội…”, PGS.TS Lưu Bích Ngọc - Chánh Văn phòng Hội đồng Quốc gia Giáo dục và Phát triển nhân lực nhìn nhận.