HTX, doanh nghiệp cần trợ lực để bảo vệ chuỗi giá trị ngành dừa
Đầu tư cho chế biến, phát triển vùng nguyên liệu hay nguồn nhân lực chất lượng cao, ngoài sự cố gắng của các HTX, doanh nghiệp... ngành dừa xuất khẩu đang rất cần sự hỗ trợ bằng những chính sách cụ thể của các cơ quan chức năng để giúp ngành được mệnh danh tỷ đô này cạnh tranh bền vững trên thị trường.
Đại diện Công ty CP Tetra Pak cho biết ngành dừa hiện chưa chú trọng nhiều đến chế biến, đặc biệt là khâu chế biến sâu.
Khó từ nguyên liệu đến chế biến
Trong khi để chế biến được một sản phẩm đồ uống từ sữa dừa đảm bảo chất lượng và hạn sử dụng dài đòi hỏi phải có sự nghiên cứu chuyên sâu về những khó khăn trong quá trình sản xuất.
Bản chất sữa dừa có nhiều chất béo nên vi sinh vật không có lợi có môi trường thuận lợi để phát triển nên dễ hỏng, thời gian bảo quản ngắn. Ngay tại vỏ dừa, nếu không cẩn thận từ khâu thu hoạch, bảo quản rất dễ bị nấm mốc và dễ bị nhiễm vào đồ dùng, máy móc chế biến.
Còn ông Phạm Hữu Thuận, Giám đốc HTX Nông nghiệp Vang Quới Đông (Bến Tre) cho biết hiện nay để liên kết với các doanh nghiệp thì các HTX phải đảm bảo được cả về chất lượng và diện tích để đáp ứng những đơn hàng lớn.
Ngay như đơn hàng 300.000 quả dừa trọc của doanh nghiệp đặt thì thực chất không phải là chuyện đơn giản vì dừa đó thường có hai size, một là size 32 trái một thùng, hai là size 24 trái một thùng. Để sản xuất 300.000 trái đủ tiêu chuẩn thì tương đương sẽ cần trong khoảng 700.000-800.000 trái trên cây. Trung bình các đơn vị xuất khẩu mỗi container xuất được 1.340 thùng cỡ hơn 40.000 trái/container. Như vậy, với số số lượng trên, HTX phải có đến 100 ha.

Chế biến sâu sẽ giúp ngành dừa phát triển bền vững.
Đó là chưa kể đối với các HTX hiện làm vai trò bao tiêu dừa cho nông dân và liên kết với doanh nghiệp để tiêu thụ thì gặp không ít vấn đề. Nhất là khi dừa sốt giá, bộ phận thương lái tìm mọi cách làm việc, tăng giá để có thể mua dừa của người dân. Trong khi tâm lý của người dân thường thấy chỗ nào giá cao hơn thì bán mà không nghĩ đến vấn đề lâu dài. Điều này khiến HTX không đảm bảo đúng số lượng ký kết với doanh nghiệp, dễ vỡ hợp đồng.
Trong khi muốn thu mua được dừa cho người dân và liên kết được với doanh nghiệp thì HTX phải có tư cách pháp nhân, một phần doanh thu và lợi nhuận phải đóng thuế cho Nhà nước, phải đầu tư liên kết xây vùng nguyên liệu.
Rõ ràng HTX và doanh nghiệp là những mắt xích quan trọng trong việc xây dựng và phát triển chuỗi giá trị ngành dừa. Tuy nhiên hiện nay ngay cả HTX và doanh nghiệp chế biến dù rất muốn đầu tư cho việc nâng cao giá trị gia tăng nhưng sự tác động từ nhiều yếu tố có thể sẽ khiến phá vỡ liên kết giữa nông dân với HTX, HTX với doanh nghiệp, từ đó tạo nên sự phát triển không bền vững của cả ngành.
Cần chính sách làm lực đẩy
Khảo sát của VnBusiness cho thấy, một quả dừa xiêm tươi khi mua ở chợ có giá dao động 9.000-17.000 đồng/quả, tùy từng mùa. Nhưng khi dừa xiêm được sơ chế thành dừa trọc đưa vào các siêu thị, giá sẽ là 28.000-40.000 đồng/quả.
Rõ ràng, giá trị kinh tế sau quá trình sơ chế đã tăng, chưa kể nếu chế biến sâu thì các sản phẩm từ dừa sẽ tăng gấp nhiều lần. Trong khi không chỉ trái dừa mà ngay cả cây dừa cũng có thể tận dụng tất cả mọi bộ phận để phục vụ các ngành chế biến, xuất khẩu. Dừa cũng là ngành tỷ đô, hỗ trợ đắc lực trong công cuộc chống biến đổi khí hậu.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, đa số dừa của Việt Nam còn xuất thô với giá trị gia tăng thấp. Đi liền với đó là thị trường còn bấp bênh, không ổn định.
Ông Nguyễn Quang Đăng, Giám đốc Công ty TNHH xuất nhập khẩu nông sản Bảo Thạch (Bến Tre) cho biết hiện nhu cầu thị trường về dừa tươi và các sản phẩm từ dừa rất lớn, đơn hàng của đơn vị đã tăng gấp đôi. Tuy nhiên, dừa và các sản phẩm từ dừa của Việt Nam chủ yếu vẫn xuất khẩu thô qua doanh nghiệp nước ngoài nên có tính thời vụ. Nếu doanh nghiệp nước ngoài cần lượng hàng lớn, họ sẽ mua nhiều từ đó giá dừa và các sản phẩm từ dừa tăng cao và ngược lại.
Bên cạnh đó, để đảm bảo các đơn hàng xuất khẩu về chất lượng và số lượng, ngoài nguyên liệu trong nước, doanh nghiệp vẫn phải nhập khẩu dừa nguyên liệu làm tăng chi phí.
Theo giới chuyên gia, nếu dừa xuất thô thì giá trị gia tăng thấp, hoạt động này cũng chỉ giúp thu được thuế xuất khẩu hoặc không. Trong khi hiện nay, ngành chế biến dừa ở Việt Nam chưa được trợ lực từ phía cơ quan quản lý nhà nước. Trong khi ở nhiều nước đã có các chính sách cụ thể hỗ trợ ngành chế biến dừa để gia tăng giá trị.
Ngay như Indonesia hiện đã có chính sách rõ ràng về thuế, có chính sách để tránh nhập khẩu dừa thô nhằm hài hòa lợi ích của người dân, doanh nghiệp trồng dừa trong nước. Ngoài ra, nước này cũng có chính sách yêu cầu đơn vị thu mua phải có giá tối thiểu cho người trồng dừa, từ đó bảo vệ ngành dừa trong nước.
Vậy nên chăng, Việt Nam cũng cần có những chính sách tương tự để hỗ trợ nông dân, HTX, doanh nghiệp giống như Indonesia đang làm để đưa ngành dừa phát triển bền vững.
Đặc biệt hiện nay, để xuất khẩu dừa và các sản phẩm từ dừa sang châu Âu đòi hỏi yêu cầu rất cao về chỉ số phát triển bền vững. Nhưng theo đại diện các HTX và doanh nghiệp, việc tuyên truyền, đào tạo nhân lực cho doanh nghiệp, HTX còn yếu.
Hiện cả HTX và doanh nghiệp ngành dừa tuyển nhân sự về phát triển bền vững rất khó nên phải tự đào tạo. Trong khi nếu HTX, doanh nghiệp có nhân sự đầy đủ thì sẽ vừa đảm bảo được quy trình từ ngay vùng nguyên liệu. Và khi bán thì bán dừa organic giá cũng cao hơn 20-30% so với dừa thông thường.
Như vậy, việc đáp ứng được các tiêu chuẩn khắt khe của nhiều nước sẽ giúp nâng cấp ngành dừa trong nước phát triển theo hướng bền vững.
Ông Phạm Hữu Thuận cho biết nếu có nguồn nhân lực chất lượng, khâu thu mua, bao tiêu cũng thuận lợi hơn. Bởi nhiều doanh nghiệp khi làm dừa trọc yêu cầu phải chọn lọc rất nhiều khâu. Nếu HTX không tổ chức sản xuất với thành viên mà chỉ liên kết với các vựa thì các vựa thường mua dừa đại trà, không chọn size, mua cả những quả không đạt kỹ thuật. Đến lúc sơ chế, chế biến dừa lại bị mốc là coi như thua lỗ.
“Điều này vừa ảnh hưởng đến lợi ích của người trồng dừa vừa ảnh hưởng đến khâu xuất khẩu”, Giám đốc HTX Vang Quới Đông nhấn mạnh.