Hướng tới phát thải ròng bằng 0

Ngân hàng Thế giới (WB) vừa công bố Báo cáo Quốc gia Khí hậu và Phát triển cho Việt Nam, trong đó nhấn mạnh tính cấp thiết của việc thích ứng với biến đổi khí hậu, cũng như giảm cường độ carbon trong tăng trưởng kinh tế.

Để hướng tới phát thải ròng bằng 0 cần thúc đẩy phát triển năng lượng tái tạo. Ảnh: minh họa

Để hướng tới phát thải ròng bằng 0 cần thúc đẩy phát triển năng lượng tái tạo. Ảnh: minh họa

WB cho rằng, 100 triệu người dân Việt Nam thuộc nhóm dễ bị tổn thương nhất trên thế giới trước tác động của khí hậu đang phải đối mặt với nhiều rủi ro dọc theo bờ biển dài 3.260 km và các vùng trũng thấp rộng lớn của đất nước.

Nguy cơ đối với các khu đô thị và khu công nghiệp, đặc biệt là đồng bằng sông Cửu Long, nơi sinh sống của 18 triệu người, đã và đang bị ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu, đặt nhiều bộ phận lớn của nền kinh tế vào rủi ro. Dự báo, trong vòng 80 năm nữa, hơn 70% diện tích đất của một số tỉnh, thành phố có thể bị ngập.

Theo đánh giá của các chuyên gia, khi nền kinh tế đang phát triển nhanh của Việt Nam tiến dần đến vị thế là nước có thu nhập cao, Việt Nam cũng cần phải giảm cường độ carbon.

Mặc dù, lượng phát thải của Việt Nam vào tổng lượng phát thải khí nhà kính toàn cầu tương đối nhỏ, chỉ ở mức 0,8%. Nhưng tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh chóng của Việt Nam đã tăng lượng phát thải khí nhà kính bình quân đầu người lên gấp 4 lần trong thế kỷ này, từ 0,79 tấn carbon dioxide (CO2) tương đương vào năm 2000 lên 3,81 tấn CO2 vào năm 2018, và lượng khí thải đang tăng với tốc độ nhanh nhất trên thế giới.

Ô nhiễm liên quan đến khí thải này ảnh hưởng đến sức khỏe và giảm năng suất; tình trạng cạn kiệt tài nguyên và các tác động của biến đổi khí hậu đã làm tổn hại đến thương mại và đầu tư. Nếu không có các biện pháp thích ứng toàn diện, tác động của biến đổi khí hậu có thể khiến thêm từ 400.000 đến 1 triệu người rơi vào cảnh nghèo cùng cực vào năm 2030.

Thực tế, biến đổi khí hậu đã gây thiệt hại cho Việt Nam khoảng 10 tỷ USD trong năm 2020, tương đương 3,2% GDP. Con số thiệt hại này có thể lên tới 523 tỷ USD vào năm 2050.

Hiện tại, chúng ta đã cam kết chấm dứt phá rừng vào năm 2030, giảm 30% lượng khí thải mêtan và chấm dứt mọi hoạt động đầu tư vào sản xuất điện than mới, mở rộng quy mô triển khai năng lượng tái tạo và loại bỏ điện than vào những năm 2040. Những cam kết này cao hơn đóng góp do quốc gia xác định năm 2020, trong đó Việt Nam cam kết đạt mục tiêu giảm phát thải không điều kiện là 9% vào năm 2030 so với năm cơ sở 2014 và mục tiêu giảm phát thải có điều kiện là 27%.

Để đạt được các mục tiêu phát triển, đồng thời thực hiện các cam kết về khí hậu, các chuyên gia đề xuất nhiều giải pháp trên hai góc độ quan trọng, đó là nâng cao khả năng chống chịu với các tác động của khí hậu và theo đuổi chiến lược tăng trưởng hướng nền kinh tế xanh, giảm dần các nguồn năng lượng thảm dụng carbon.

Theo đó, nhu cầu đầu tư thêm vào các giải pháp thích ứng và giảm nhẹ tác động của biến đổi khí hậu từ nay đến năm 2040 lên đến khoảng 6,8% GDP mỗi năm, tương đương khoảng 368 tỷ USD. Trong đó, các dự án đầu tư ưu tiên cho giảm tốc độ tăng phát thải sẽ cần ít nhất 81 tỷ USD.

Muốn vậy, Chính phủ cần bổ sung đầu tư công bằng nhiều cải cách chính sách, cải thiện khung pháp lý để thu hút đầu tư vào tăng tốc quá trình chuyển dịch sang năng lượng tái tạo và thực hiện các kế hoạch tiết kiệm năng lượng.

Đồng thời, mở rộng an sinh xã hội để bù đắp những tác động kinh tế mà các giải pháp khí hậu có thể tác động đến những người nghèo dễ bị tổn thương nhất bằng nguồn thu từ thuế carbon. Thuế carbon hoặc các quy định hình thành hệ thống mua bán khí thải sẽ là chìa khóa để Việt Nam đạt được các mục tiêu phát triển và thích ứng với biến đổi khí hậu.

Hai lộ trình này sẽ giúp Việt Nam đạt được các mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, đồng thời tăng GDP bình quân đầu người hơn 5%/năm - tỷ lệ trung bình cần thiết để trở thành quốc gia có thu nhập cao vào năm 2045.

Hoàng Lâm

Nguồn Biên Phòng: https://bienphong.com.vn/huong-toi-phat-thai-rong-bang-0-post453123.html