Hút thuốc lá gây nguy cơ hàng đầu ung thư bàng quang
Hút thuốc lá, tiếp xúc hóa chất công nghiệp, uống ít nước và các bệnh lý bàng quang mạn tính là những yếu tố làm tăng nguy cơ ung thư bàng quang, phát hiện sớm giúp nâng cao hiệu quả điều trị.
Theo BS Nguyễn Quỳnh Tú - A6-D, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, hút thuốc lá là nguyên nhân quan trọng nhất, gây ra khoảng một nửa số ca ung thư bàng quang.
Các chất độc trong khói thuốc được thải qua nước tiểu, tiếp xúc trực tiếp với niêm mạc bàng quang trong thời gian dài, từ đó làm tăng nguy cơ ung thư. Người hút thuốc có nguy cơ mắc bệnh cao gấp ít nhất 3 lần so với người không hút thuốc.
Bên cạnh đó, tiếp xúc với hóa chất công nghiệp, đặc biệt là các amin thơm như benzidine và beta-naphthylamine, là yếu tố nguy cơ đã được chứng minh.
Những hóa chất này từng được sử dụng trong ngành nhuộm và hiện vẫn tồn tại trong nhiều lĩnh vực công nghiệp khác. Người lao động trong các ngành cao su, da, dệt may, sơn, in ấn có nguy cơ mắc ung thư bàng quang cao hơn.
Ngoài ra, các nghề như thợ sơn, thợ máy, thợ in, lính cứu hỏa, thợ làm tóc và tài xế xe tải cũng được xếp vào nhóm nguy cơ do tiếp xúc lâu dài với hóa chất độc hại hoặc khói dầu diesel.
Bên cạnh đó, thói quen uống không đủ nước cũng góp phần làm tăng nguy cơ ung thư bàng quang. Những người uống nhiều nước thường xuyên đi tiểu hơn, nhờ đó giúp đào thải các chất độc ra khỏi bàng quang, hạn chế thời gian tiếp xúc của niêm mạc bàng quang với các chất gây ung thư.
Ngoài các yếu tố môi trường và thói quen sinh hoạt, nguy cơ ung thư bàng quang còn liên quan đến đặc điểm nhân khẩu học. Bệnh gặp nhiều ở người lớn tuổi, với khoảng 90% trường hợp trên 55 tuổi, và phổ biến ở nam giới hơn nữ giới.

Ung thư bàng quang là bệnh lý ác tính của đường tiết niệu.
BS Nguyễn Quỳnh Tú cũng lưu ý rằng các tình trạng kích thích và viêm bàng quang mạn tính như nhiễm trùng tiết niệu tái diễn, sỏi thận, sỏi bàng quang, đặt sond tiểu kéo dài có liên quan đến ung thư bàng quang, đặc biệt là ung thư biểu mô tế bào vảy.
Những người từng mắc ung thư bàng quang hoặc các ung thư biểu mô tiết niệu khác có nguy cơ cao tái phát hoặc xuất hiện ung thư mới ở các vị trí khác của đường tiết niệu, do đó cần được theo dõi lâu dài, chặt chẽ.
Ngoài ra, một số dị tật bẩm sinh ở bàng quang, yếu tố di truyền và tiền sử gia đình mắc bệnh cũng có thể làm tăng nguy cơ ung thư bàng quang. Một số hội chứng di truyền hiếm gặp như hội chứng Lynch, bệnh Cowden hoặc đột biến gen RB1 không chỉ liên quan đến các loại ung thư khác mà còn làm tăng nguy cơ mắc ung thư bàng quang.
Bên cạnh đó, việc sử dụng kéo dài thuốc hóa trị cyclophosphamide hoặc từng xạ trị vùng chậu để điều trị các bệnh ung thư khác cũng được ghi nhận làm tăng nguy cơ mắc bệnh.
Đồng thời, bác sĩ cũng khuyến cáo, để giảm nguy cơ ung thư bàng quang, mọi người cần cai thuốc lá, uống đủ nước hằng ngày, hạn chế tiếp xúc với hóa chất công nghiệp độc hại và điều trị triệt để các bệnh lý viêm nhiễm, sỏi đường tiết niệu.
Đối với những người có yếu tố nguy cơ cao, việc khám sức khỏe định kỳ giúp phát hiện sớm ung thư bàng quang, từ đó nâng cao hiệu quả điều trị và khả năng khỏi bệnh.











