Hữu Ngọc và câu chuyện đọc sách của nam sinh thời Pháp thuộc

Thuật chuyện của Hữu Ngọc có thể để lộ một phương diện ít được biết đến trong nghiên cứu về các trí thức Việt Nam hiện đại: cách đọc sách của nam sinh thời Pháp thuộc.

Những nam sinh thời Pháp thuộc

Trong bài báo trước “Tôi tự học: kinh nghiệm quý của trí thức Việt Nam thời Pháp thuộc”, người viết đã bình luận tự học với tư cách sự rèn tập nhằm trở thành và đồng thời duy trì tồn tại có tính chất xã hội của những trí thức trưởng thành thời Pháp thuộc.

Chủ đề về các trí thức thuộc địa sẽ được nối tiếp trong bài báo này, bằng cách tập trung vào giai đoạn trước khi họ trở thành trí thức, nghĩa là lúc đi học, giới hạn ở các nam sinh, vốn chiếm đa số.

Giai đoạn này được quy ước là khoảng thời gian sống trước khi anh ta hoặc vào trường đại học, nền giáo dục bậc cao xa xỉ thời ấy, hoặc trước khi kết thúc các chương trình học khả thi. Khoảng thời gian đi học của họ trung bình là 20 năm đầu đời.

Các trí thức thuộc địa, dẫu sao, trong các hồi ký và tác phẩm của họ, phần nhiều đã bỏ qua việc thuật lại tỉ mỉ sự tiến triển hay tác động trong hiểu biết của họ thông qua một số trung gian vật chất có thể được nghiên cứu khách quan và thực chứng, điển hình là các quyển sách cụ thể.

Bìa hai tập sách Cảo thơm lần giở. Nguồn: báo Vietnamnet

Thuật chuyện của Hữu Ngọc (sinh năm 1918), xét vậy, là một tài liệu hiếm, qua đó để lộ một phương diện ít được biết đến trong nghiên cứu về các trí thức Việt Nam hiện đại: cách đọc sách của học sinh nam thời Pháp thuộc.

Hữu Ngọc đi hết giai đoạn học sinh khoảng năm 1940, lúc 22 tuổi, khi đó đã đậu Tú tài Triết học chương trình Pháp, chuẩn bị vào Trường Đại học Luật Đông Dương. Ở đó ít lâu sau ông bỏ học. Sở nghiệm của Hữu Ngọc được kể lại trong 30/181 bài báo dài kỳ trong hơn ba năm, từ 2016 tới 2020, trên tờ Sức khỏe & Đời sống số cuối tuần, cơ quan của Bộ Y Tế, nơi ông là cộng tác viên quan trọng từ năm 1998, rồi được đóng thành hai tập sách Cảo thơm lần giở in năm 2020.

Lần giở những quyển sách được nhắc tới

Những cuộc đọc của học sinh Hữu Ngọc diễn ra phần lớn ở trường học, từ căn gác ọp ẹp trên phố Hàng Quạt, khoảng năm 1923 hoặc 1924, tới lớp Tú tài Ban Triết học Tây ở trường Bưởi, chiếm 24/30 bài về những quyển sách của 24 tác giả. Trong đó, có tới 12 tác giả, chiếm một nửa, Hữu Ngọc chỉ được nghe các thầy kể, nhưng chưa bao giờ đọc chính văn.

Các quyển sách của 12 tác giả trên, nói khác, không có thật một cách vật chất đối với ông, do đó là nơi chứa những ảo ảnh của chính ông về chúng. Chúng được đem lại cho ông thông qua các thầy giáo, nhằm đưa tới sự ảo ảnh được đồng thuận. Điều này là một hoạt động then chốt của giáo dục.

Thầy đồ dạy chữ Hán bắt Hữu Ngọc, khi đó sáu tuổi, học thuộc lòng Tam tự kinh, ở đó nổi bật tiền đề về con người được biết tới nhiều nhất trong Sách Mạnh Tử: “nhân chi sơ, tính bản thiện” (con người sinh ra, tính vốn thiện).

Mãi tới năm 18 tuổi, được học triết với thầy P. Foulon – nhân vật trở lại trong ít nhất bốn bài báo – tại chương trình Tú tài, ông mới biết đoạn trích hồi bé đọc được lấy từ đâu. Điều Hữu Ngọc biết được năm 18 tuổi, xét cho cùng, không hẳn quan trọng. Quan trọng là ông phải tiếp thu thứ ảo ảnh được đồng thuận xã hội về Sách Mạnh Tử.

Vợ chồng Hữu Ngọc năm 1954. Nguồn: báo Sức khỏe & Đời sống.

Vợ chồng Hữu Ngọc năm 1954. Nguồn: báo Sức khỏe & Đời sống.

Hữu Ngọc 14 tuổi, năm 1932, trong chương trình trung học tại Trường Trung hộ Bảo hộ, lần đầu biết tới các sách của Plato qua thuật ngữ “Platoique”, tình yêu kiểu Plato: thuần tinh thần, lý tưởng, không vương vấn cơ thể, dục tình. Ảo ảnh những quyển sách của Plato đưa đến cho ông, dẫu lúc đó ông chưa từng yêu, sự gần gũi có thật với một tình yêu điển hình trong bầu không khí ngột ngạt, dùng dằng tại Bắc bộ, nó được kết tinh trong tiểu thuyết bán chạy thời thuộc địa của nhóm Tự lực Văn đoàn: Hồn bướm mơ tiên của Khái Hưng (1896 – 1947).

Ảo ảnh về những quyển sách Hữu Ngọc chưa đọc, xét vậy, nếu không thể được nối với các điều kiện tinh thần hoặc vật chất trong xã hội thời ông sống, dường như sẽ không có nhiều ý nghĩa với ông.

Tú tài Triết học tương lai Hữu Ngọc hờ hững với những quyển sách triết học kinh điển, thành thử đơn giản chấp nhận một cách máy móc hư tưởng. Thầy dạy triết của ông là P. Foulon: “một trí thức uyên thâm, rất có cảm tình với Việt Nam […] lập dị, đề cao nhiều triếu gia có khuynh hướng khác nhau, nhưng đều có lập trường cá nhân chủ nghĩa cực đoan” (t. 2, tr. 139). Thầy P. Foulon giảng say sưa về Diderot, Nietzsche, Bergson, nhưng không thể làm ông ấn tượng.

Bổn phận phải đọc

Hữu Ngọc, dẫu vậy, không thể không buộc phải đọc nhiều mảnh nhỏ từ nhiều quyển sách. Trong đó gồm các tác phẩm của 12 tác giả, ngang với lượng tác giả mà ông chỉ được nghe giảng.

Một số quyển ông rất thích, đọc ngấu nghiến, giữ ấn tượng sâu sắc. David Copperfield, quyển tiểu thuyết được xem như tự truyện của Dickens, đến với ông ở nguyên bản tiếng Anh, năm 1936-37, trong các giờ học tiếng Anh chương trình Tú tài Pháp với thầy Lohéné, theo ông suốt đời.

Tiểu thuyết Những tâm hồn cao thượng của Amicis hay các bài đọc trong Quốc văn giáo khoa thư của nhóm Trần Trọng Kim (1883 – 1953), bị buộc phải tiếp thu trong chương trình trung học, được xem như một sự giáo dục đạo đức bằng văn về “tình yêu ông bà, bố mẹ, anh chị em, bạn bè, xóm làng, thầy giáo, cái vui của nhà trường, cái đẹp thôn quê, một số nhân vật anh hùng dân tộc” (t. 1, tr. 16). Sở nghiệm của ông đôi lúc hoàn toàn đối lập với các trí thức thế hệ sau đó. Nhà văn Bảo Ninh (sinh năm 1952), chẳng hạn, rất ghét quyển tiểu thuyết trên vì sự đơn điệu, giáo điều của nó.

Nhiều tác phẩm bị ép đọc có thể làm ông rất nhớ, nhưng không thể không lãnh đạm. Thầy F. Foulon, trong năm 1938, “rất ca ngợi Pascal và cho chúng tôi đọc thuộc lòng một số đoạn văn của triết gia” (t. 2, tr. 161). Hữu Ngọc, rất lâu sau này, sang Đức chữa bệnh, tình cờ thấy tập Penseés trong phòng, rồi lần đầu đọc sạch tác phẩm bắt buộc phải đọc hơn nửa thế kỷ trước: “rỗi rãi, tôi có thì giờ đọc toàn tập và suy ngẫm, hiểu thêm ít nhiều về Pascal” (t. 2, tr. 161).

Mặc dù vậy, ông không hề định nghiên cứu Pascal. Định kiến được hình thành trong sở nghiệm đọc thời đi học của ông, trong nhiều trường hợp, giữ nguyên.

Hữu Ngọc tuổi bách niên. Nguồn: báo Gia đình

Hữu Ngọc tuổi bách niên. Nguồn: báo Gia đình

Ngoài trường học

Hữu Ngọc tiếp xúc với 6/30 tác giả, cùng các quyển sách của họ, ở ngoài trường học. Chủ thể tính của học sinh Hữu Ngọc, trong loại môi trường này, được rèn luyện và biểu hiện, trong việc lựa chọn và đánh giá các quyển sách.

“Thời thanh niên, tôi vốn thích đọc truyện trinh thám và truyện phiêu lưu” (t. 2, tr. 187). Cho nên Hữu Ngọc thích David Copperfield là điều không khó hiểu. Ông say sưa đọc Nghìn lẻ một đêm, trong bản dịch tiếng Việt Nhất thiên nhất dạ thoại, tưởng tượng ra một vùng đất huyền ảo. Sau này, dẫu bị thầy ép đọc, đồng thời ông cũng say sưa đọc, Những bức thư Ba Tư của Montesquieu, thì Hữu Ngọc không thể không gạt đi ấn tượng huyền bí về Ba Tư.

Loạt truyện trinh thám yêu thích của ông tất yếu phải là Sherlock HolmesArsene Lupin. Ông say mê các truyện phiêu lưu ký Anh, cũng tất yếu phải là Robinson Crusoe của Defoe, Đảo giấu vàng của Stevenson, Gulliver du ký, bản dịch của Nguyễn Văn Vĩnh (1882 – 1936) “trong bộ sách rẻ tiền Âu Tây tư tưởng” (t. 1, tr. 162).

Từ đó, cậu nam sinh Hữu Ngọc được giáo dục về các phẩm chất Anh, như phớt tỉnh Ăng-lê hay black humor (hài kịch đen), với tư cách sự đối lập với các giá trị Pháp, đã chiếm gần như toàn thể chương trình giáo dục bấy giờ không chỉ đối với cậu mà đối với hầu hết nam sinh đương thời.

Trong số các quyển sách trên, tồn tại một quyển đặc biệt với Hữu Ngọc, bởi nó đến với ông ở khu vực trung gian giữa nhà trường – ngoài trường học, bắt buộc – tự nguyện.

Sau khi kết thúc năm học 1930, ở lớp nhì trường tiểu học trên phố Hàng Than, lúc 12 tuổi, ông được thưởng một số sách, trong đó có Cách ngôn của Marc Aurelius. Đây, nếu ông nhớ đúng, không phải bản trích dịch in năm 1931 của Phạm Quỳnh (1892 – 1945), lúc đó đang làm chủ nhiệm Nam Phong tạp chí, nhưng là một bản dịch tiếng Pháp.

Cách lựa chọn một triết gia khắc kỷ của Hữu Ngọc có thể hiểu không phải là một thôi thúc trí tuệ, nhưng như sự tự rèn luyện tinh thần theo kiểu cá nhân luận, trong bối cảnh xã hội ngột ngạt thời ấy. “Vì nó mồ côi mẹ, ngại chơi với các bạn khỏe hơn và nghịch ngợm hơn, nên cảm thấy cô đơn, cái gì cũng đọc” (t. 1, tr. 29).

Khi vào học Ban Tú tài Triết học chương trình Pháp tại Trường Trung học Bảo hộ, ông liên tục trở lại quyển sách được thưởng năm ông 12 tuổi, “để học cách tăng cường nghị lực, làm chủ bản thân và tìm được thanh thản trong tâm hồn” (t. 1, tr. 29).

Sở nghiệm đọc trong thời đi học của Hữu Ngọc, vì vậy, có thể góp phần như một trong các tiền đề nhằm hiểu biết về lịch sử trí thức Việt Nam hiện đại. Từ sự chăm chú tìm hiểu một cá nhân trong bối cảnh lịch sử đặc thù của anh ta, độc giả hôm nay có thể quay trở lại tìm hiểu chính mình như một người khác.

Hữu Ngọc sinh năm 1918, ông từng là Giám đốc Nxb Ngoại văn (nay là Nxb Thế Giới), nguyên tổng biên tập của 3 tờ báo đối ngoại: Tia lửa (tiếng Pháp), Việt Nam tiến bước (tiếng Anh, Pháp, Esperanto) và Nghiên cứu Việt Nam (tiếng Anh, Pháp).

Ngoài viết sách giới thiệu về văn hóa dân tộc, ông còn là dịch giả nhiều tác phẩm văn học nổi tiếng của thế giới sang tiếng Việt. Ông đã được trao tặng nhiều huân chương, giải thưởng danh giá trong nước và quốc tế như 2 Huân chương Độc lập; Huân chương Chiến công; Huân chương Cành cọ Hàn lâm (Pháp); Huân chương Bắc Đẩu (Thụy Điển); Giải Mot dor (Pháp); Giải Vàng Sách Việt Nam 2006…

Đăng Thành

Nguồn Người Đô Thị: https://nguoidothi.net.vn/huu-ngoc-va-cau-chuyen-doc-sach-cua-nam-sinh-thoi-phap-thuoc-40304.html