INIR đưa ra 38 khuyến nghị, 13 đề xuất liên quan đến điện hạt nhân tại Việt Nam

Sau hơn 10 ngày làm việc với đại diện các bộ, ngành liên quan cùng EVN, PVN, UBND tỉnh Khánh Hòa, đoàn công tác của IAEA đã đưa ra 38 khuyến nghị và 13 đề xuất liên quan đến việc triển khai các dự án điện hạt nhân.

Từ ngày 1 đến 11/12, tại Hà Nội, Bộ Khoa học và Công nghệ (đầu mối là Cục An toàn Bức xạ và Hạt nhân) đã chủ trì, phối hợp các bộ, ngành liên quan của Việt Nam làm việc với đoàn công tác của Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) để đánh giá toàn diện cơ sở hạ tầng điện hạt nhân quốc gia (Intergrated Nuclear Infrastructure Review Mission - INIR Mission).

Đây là hoạt động quan trọng trong lộ trình chuẩn bị triển khai dự án điện hạt nhân Ninh Thuận và các dự án tương tự trong tương lai.

Đoàn công tác INIR gồm 7 chuyên gia IAEA, 3 chuyên gia quốc tế do IAEA mời đến từ Anh, Brazil, Bungary và 1 quan sát viên của Ai Cập.

Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Lê Xuân Định phát biểu khai mạc Đợt làm việc. Ảnh: Cục ATBXHN.

Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Lê Xuân Định phát biểu khai mạc Đợt làm việc. Ảnh: Cục ATBXHN.

Các bộ, ngành và đơn vị liên quan của Việt Nam tham gia làm việc với đoàn công tác INIR lần này gồm có Bộ Công Thương, Bộ Tài chính, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao, Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), Tập đoàn Công nghiệp - Năng lượng Quốc gia Việt Nam (PVN), UBND tỉnh Khánh Hòa.

Sau 10 ngày làm việc, Đoàn khảo sát INIR cũng cho rằng, Việt Nam đã có những bước tiến quan trọng để khởi động lại và đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án Điện hạt nhân Ninh Thuận, cũng như phát triển cơ sở hạ tầng cần thiết.

Nhiều biện pháp và quyết định đã được thông qua ở tất cả các cấp (bao gồm Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, các bộ và cơ quan liên quan). Việt Nam đã thiết lập khung pháp lý hỗ trợ chương trình điện hạt nhân, cũng như các cơ chế đặc biệt để tạo điều kiện thuận lợi cho các thỏa thuận tài chính và hợp đồng cho dự án Điện hạt nhân Ninh Thuận 1, Ninh Thuận 2. Một số nghiên cứu được thực hiện trong giai đoạn 2009-2016 hiện đang được cập nhật để hỗ trợ chương trình.

Ngày 10/2/2025, Việt Nam đề nghị IAEA thực hiện nhiệm vụ Đánh giá cơ sở hạ tầng hạt nhân tích hợp - INIR (giai đoạn 2). Báo cáo tự đánh giá ban đầu (SER) đã được nộp cho IAEA vào ngày 15/7/2025.

Một nhiệm vụ hỗ trợ SER kết hợp với nhiệm vụ tiền INIR đã được tiến hành từ ngày 9 đến ngày 12/9/2025. Việt Nam đã nộp báo cáo SER cuối cùng (bao gồm các tài liệu hỗ trợ) cho IAEA vào ngày 15/10/2025.

Bà Aline De Cloizeaux, Vụ Trưởng Vụ Điện hạt nhân, Ban Năng lượng hạt nhân IAEA trao dự thảo Báo cáo của Đoàn cho Thứ trưởng Lê Xuân Định.

Bà Aline De Cloizeaux, Vụ Trưởng Vụ Điện hạt nhân, Ban Năng lượng hạt nhân IAEA trao dự thảo Báo cáo của Đoàn cho Thứ trưởng Lê Xuân Định.

Và nhiệm vụ INIR được tiến hành từ ngày 1 đến ngày 11/12/2025 tại Hà Nội.

Để hỗ trợ Việt Nam tiếp tục phát triển cơ sở hạ tầng, Đoàn khảo sát INIR đã đưa ra 38 khuyến nghị và 13 đề xuất. Đoàn cũng đã xác định hai kinh nghiệm tốt có thể mang lại lợi ích cho các quốc gia khác đang xem xét việc đưa điện hạt nhân vào hoạt động.

Do bối cảnh quốc gia hiện nay đã thay đổi đáng kể (kể từ khi chương trình bị tạm hoãn vào năm 2016), nên các phát hiện từ phái đoàn lần này khác với các phát hiện của phái đoàn INIR (giai đoạn 2) được thực hiện vào năm 2012.

Theo hướng dẫn của IAEA, cơ sở hạ tầng điện hạt nhân bao gồm 19 nội dung chủ yếu thể hiện tất cả các hoạt động và công tác chuẩn bị về mọi mặt từ cơ sở vật chất, trang thiết bị, địa điểm, công trình phụ trợ, văn bản quy phạm pháp luật đến các nguồn lực kinh tế và con người nhằm phục vụ cho chương trình phát triển điện hạt nhân.

Đối với quốc gia mới bắt đầu chương trình điện hạt nhân đầu tiên như Việt Nam, quá trình phát triển cơ sở hạ tầng phải trải qua 3 giai đoạn được đánh dấu bằng 3 cột mốc tương ứng. Các giai đoạn và cột mốc tương ứng như sau:

Giai đoạn 1 - Chuẩn bị để đưa ra quyết định khởi động chương trình điện hạt nhân, được đánh dấu bằng Cột mốc số 1 - Sẵn sàng đưa ra quyết định chủ trương triển khai dự án điện hạt nhân đầu tiên.

Giai đoạn 2 - Chuẩn bị cho việc xây dựng nhà máy điện hạt nhân, được đánh dấu bằng Cột mốc số 2 - Sẵn sàng mời thầu dự án đầu tiên.

Giai đoạn 3 - Xây dựng và đưa vào vận hành nhà máy điện hạt nhân đầu tiên, được đánh dấu bằng Cột mốc số 3 - Sẵn sàng đưa vào vận hành nhà máy điện hạt nhân đầu tiên.

Các khuyến nghị và đề xuất được INIR đưa ra có liên quan tới khung pháp lý, pháp quy từ phía Nhà nước lẫn hoạt động của các doanh nghiệp liên quan

Cần tiếp tục rà soát và tăng cường khung pháp lý, pháp quy của mình:
1. Việt Nam đã ban hành luật hạt nhân toàn diện: Luật Năng lượng Nguyên tử 2025. Việt Nam là thành viên của hầu hết các công ước quốc tế có liên quan và đang xem xét tham gia công ước trách nhiệm hạt nhân. Việt Nam nên tiếp tục hướng dẫn thi hành (further enhance) Luật Năng lượng Nguyên tử 2025 theo hướng thành lập một cơ quan pháp quy độc lập, tách biệt với các cơ quan thúc đẩy phát triển ứng dụng năng lượng hạt nhân, và đảm bảo cơ quan này có thẩm quyền và nguồn lực để thực hiện trách nhiệm của mình. Hệ thống pháp quy (the law) cũng cần xác định rõ trách nhiệm của các tổ chức liên quan và tăng cường các điều khoản về trách nhiệm dân sự đối với thiệt hại hạt nhân.
2. Cần hoàn thiện khung pháp quy của mình để bao gồm tất cả các yêu cầu cần thiết cho giai đoạn 2 và đầu giai đoạn 3 của chương trình điện hạt nhân, đặc biệt là những yêu cầu cần thiết cho việc đàm phán hợp đồng. Việt Nam cũng cần tăng cường khuôn khổ an ninh hạt nhân bằng cách giải quyết vấn đề đánh giá mối đe dọa quốc gia và hoàn thiện quy trình phát triển Mối đe dọa cơ sở thiết kế (Design Basis Threat).

Cần hoàn tất công tác chuẩn bị cần thiết cho giai đoạn ký kết hợp đồng và xây dựng:
1. Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), Tập đoàn Công nghiệp - Năng lượng Quốc gia Việt Nam (PVN) cần hoàn tất việc thiết lập cơ cấu tổ chức, kịp thời đưa vào các chức năng vận hành cần thiết, cập nhật các nghiên cứu tiền khả thi hiện có và xây dựng các nghiên cứu khả thi cụ thể cho dự án Điện hạt nhân Ninh Thuận 1, Ninh Thuận 2. EVN và PVN cần rà soát lại Báo cáo đánh giá tác động môi trường, Hồ sơ phê duyệt địa điểm, xây dựng hệ thống quan trắc môi trường cho các địa điểm Ninh Thuận 1, Ninh Thuận 2, và đưa các đặc điểm môi trường của địa điểm vào các yêu cầu của hợp đồng chính.
2. Cục An toàn Bức xạ và Hạt nhân (VARANS), EVN, PVN cần đánh giá kỹ lưỡng và rà soát lại các hệ thống quản lý hiện có, đảm bảo phù hợp với các tiêu chuẩn an toàn của IAEA.
3. Cần rà soát năng lực công nghiệp quốc gia, đặt ra các mục tiêu nội địa hóa, cũng như xây dựng chương trình tăng cường sự tham gia trong nước vào xây dựng nhà máy điện hạt nhân và chế tạo thiết bị.
4. Cần kịp thời hoàn tất việc rà soát khung tài chính quốc gia để xác định các yêu cầu về nguồn vốn và thiết lập các cơ chế vững chắc cho việc thực hiện chương trình điện hạt nhân.

Cần ưu tiên phát triển năng lực nguồn nhân lực:
1. Cần phê duyệt và đảm bảo thực hiện các kế hoạch phát triển nguồn nhân lực của tất cả các tổ chức chủ chốt (Bộ Khoa học và Công nghệ - MST, Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam - VINATOM, VARANS, EVN, PVN và các đơn vị khác). Các kế hoạch này cần bao gồm các nhu cầu về tuyển dụng, giáo dục, đào tạo, kinh nghiệm và cơ sở hạ tầng, dựa trên phân tích có hệ thống về kiến thức, kỹ năng cần thiết để các tổ chức tương ứng thực hiện vai trò của mình, theo quy định của các văn bản pháp quy có liên quan.
Vì nguồn nhân lực là yếu tố thiết yếu đối với tất cả các tổ chức, Việt Nam cần tích hợp và phối hợp các kế hoạch này ở cấp quốc gia để đảm bảo phân bổ hiệu quả và tối ưu.
2. Cần tăng cường năng lực nguồn nhân lực của VARANS để đảm bảo chức năng pháp quy hiệu quả trong giai đoạn 2 và đầu giai đoạn 3.

Cần tăng cường nỗ lực phối hợp và cải thiện sự tham gia của các bên liên quan:
1. Cần tăng cường điều phối tập trung chương trình điện hạt nhân, đảm bảo thông tin liên lạc hiệu quả giữa tất cả các tổ chức và các bên liên quan (bao gồm cả công chúng) để đảm bảo tính nhất quán và tối ưu hóa. Đặc biệt, điều này cần bao gồm việc tích hợp, phối hợp các kế hoạch phát triển nguồn nhân lực, nội địa hóa và sự tham gia của các bên liên quan.
2. Cần xây dựng các kế hoạch tham gia của các bên liên quan ở cấp quốc gia và tổ chức dựa trên “Đề án thông tin và truyền thông về phát triển, ứng dụng năng lượng nguyên tử phục vụ phát triển kinh tế, xã hội” sau khi được phê duyệt.
Ngoài ra, Bộ Khoa học và Công nghệ (MST) và VARANS cần xây dựng một cơ chế làm việc giữa cơ quan pháp quy và chủ đầu tư/tổ chức vận hành.
3. Cần củng cố các chính sách và chiến lược quốc gia về chu trình nhiên liệu hạt nhân, cũng như quản lý chất thải phóng xạ.
4. Việt Nam cần xây dựng chiến lược quốc gia thống nhất về cung cấp nhiên liệu hạt nhân (giai đoạn đầu), chính sách, chiến lược toàn diện về quản lý nhiên liệu đã qua sử dụng và chất thải phóng xạ (giai đoạn cuối), cũng như các mục tiêu, yêu cầu quốc gia rõ ràng về việc tháo dỡ các cơ sở hạt nhân./.

Thanh Hương

Nguồn Đầu Tư: https://baodautu.vn/inir-dua-ra-38-khuyen-nghi-13-de-xuat-lien-quan-den-dien-hat-nhan-tai-viet-nam-d457625.html