Khả năng thiếu điện trong cả ngắn hạn, trung hạn và dài hạn
Theo dự báo, khả năng thiếu điện trong ngắn hạn (2024-2025), trung hạn (2025-2030) và dài hạn (2030-2050) là nguy cơ hiện hữu.
Thiếu điện ở miền Bắc đầu năm 2023 gây bức xúc trong dư luận xã hội
Tiếp tục chương trình phiên họp thứ 27, sáng 12/10, Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) giám sát chuyên đề “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về phát triển năng lượng giai đoạn 2016-2021”.
Theo báo cáo của đoàn giám sát, việc cung cấp và nhập khẩu năng lượng cơ bản đáp ứng đủ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh.
Giai đoạn 2016-2020, tổng cung cấp năng lượng sơ cấp của Việt Nam có mức tăng trưởng trung bình khoảng 8,7%/năm. Tổng tiêu thụ năng lượng cuối cùng tăng bình quân 6,8%/năm. Nhìn chung, ngành điện giai đoạn 2016-2021 đạt được những kết quả đáng ghi nhận.
Sản lượng điện sản xuất toàn hệ thống hàng năm đều tăng trưởng, năm sau cao hơn năm trước, đảm bảo cung cấp cơ bản đầy đủ. Hệ thống điện vận hành an toàn, ổn định.
Tổng sản lượng điện sản xuất và nhập khẩu, tổng sản lượng điện thương phẩm tiêu thụ năm 2020 đều tăng 1,5 lần so với năm 2015, khi lần lượt đạt 247 tỷ kWh và 216,9 tỷ kWh. Sản lượng điện thương phẩm bình quân đầu người tăng 1,42 lần (từ 1.567 kWh/người năm 2015 lên 2.219 kWh/người năm 2020).
Tỷ lệ xây dựng lưới điện theo Quy hoạch điện VII điều chỉnh giai đoạn 2016-2020 đạt mức trung bình khá (trên 52,97% với lưới điện 220kV; lưới điện 500kV về đường dây đạt được 58,55%, trạm 500kV đạt 87,07%).
Dù vậy, theo đoàn giám sát, mục tiêu đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia hiện nay đối mặt nhiều thách thức; các nguồn cung trong nước không đủ đáp ứng yêu cầu dẫn đến phải nhập khẩu năng lượng ngày càng lớn.
“Chỉ tiêu chủ yếu đánh giá đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia biến động theo chiều hướng bất lợi. Khả năng thiếu điện trong ngắn hạn (2024-2025), trung hạn (2025-2030) và dài hạn (2030–2050) là nguy cơ hiện hữu”, báo cáo giám sát nêu.
Việc đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia dựa trên 6 chỉ tiêu: Tỷ số trữ lượng và sản xuất của than, dầu thô và khí được quy đổi; sự phụ thuộc vào nhập khẩu than, dầu và khí đốt tự nhiên; tỷ trọng chi phí nhập khẩu trên tổng thu nhập quốc nội; đa dạng hóa nguồn nhập khẩu; đa dạng hóa cơ cấu dữ liệu để phát điện; cường độ năng lượng sơ cấp.
Đoàn giám sát cho hay, trong sau chỉ tiêu này có ba chỉ tiêu đang biến động bất lợi. Trong đó, tỷ số trữ lượng và sản xuất của than, dầu thô và khí đốt tự nhiên ngày càng giảm khi than còn hơn 70 năm, dầu thô 20 năm, khí tự nhiên 40 năm. Xu hướng phụ thuộc nhập khẩu than, dầu và khí tự nhiên trở nên rõ ràng. Trong khi, chi phí nhập khẩu than, dầu và khí tự nhiên trong tổng thu nhập quốc nội ngày càng tăng
“Đáng lưu ý, ngành năng lượng nước ta ngày càng phụ thuộc nhập khẩu; tài nguyên năng lượng sơ cấp ngày càng cạn kiệt. Tài nguyên năng lượng sơ cấp về thủy điện cơ bản đã khai thác hết. Sản lượng dầu và khí ở một số mỏ lớn suy giảm nhanh, việc phát triển mỏ mới trên Biển Đông gặp nhiều khó khăn”, đoàn giám sát đánh giá.
Những bất cập trong cung ứng năng lượng, nhất là chuẩn bị nhiên liệu sơ cấp thực hiện kế hoạch cung cấp điện và vận hành hệ thống điện quốc gia hàng năm, dự trữ xăng dầu đã dẫn đến thiếu xăng dầu cục bộ cuối năm 2022 và thiếu điện ở miền Bắc đầu năm 2023, gây bức xúc trong dư luận xã hội.
Không để thiếu điện, xăng dầu trong mọi tình huống
Các nguy cơ ảnh hưởng đến bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia thời gian tới được đoàn giám sát chỉ ra.
Đó là khó tiếp cận năng lượng, thiếu tính đa dạng hóa các nguồn năng lượng, phụ thuộc cao vào các dạng năng lượng truyền thống, mất cân đối giữa cung và cầu năng lượng trong nước - nguồn phát điện giữa các vùng, phụ thuộc vào năng lượng nhập khẩu, nguồn tài chính và công nghệ từ bên ngoài, cơ sở hạ tầng năng lượng tương xứng.
Một số dự án nguồn điện chưa đưa vào vận hành do chậm tiến độ, chậm khởi công so với quy hoạch, hoặc dừng triển khai cũng ảnh hưởng đến bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia.
Báo cáo dẫn chứng loạt dự án đang chậm tiến độ như nhà máy điện than Long Phú 1, Thái Bình 2, Sông Hậu 1 của PVN; các dự án Na Dương II, Quỳnh Lập I, Cẩm Phả III, Hải Phòng III của TKV; chuỗi dự án khí - điện Lô B Ô Môn.
Trong khi đó, việc triển khai quy hoạch các phân ngành năng lượng còn nhiều hạn chế, bất cập, nhất là trong việc tổ chức thực hiện Quy hoạch điện VII và Quy hoạch điện VII điều chỉnh đối với việc phát triển điện mặt trời, điện gió, thủy điện nhỏ.
Cụ thể, việc phê duyệt bổ sung tổng số 168 dự án điện mặt trời, 123 dự án điện gió, phê duyệt riêng lẻ 390 dự án thủy điện nhỏ vào quy hoạch phát triển điện lực các cấp giai đoạn 2016-2020 đã gây ảnh hưởng đến việc phát điện và truyền tải điện lên hệ thống.
Theo báo cáo giám sát, giai đoạn 2016-2021, các cơ quan thanh tra đã phát hiện vi phạm về kinh tế 15.170 tỷ đồng, 5.960m2 đất, xử lý hành chính 246 tổ chức, 724 cá nhân và chuyển cơ quan điều tra tiếp tục, xem xét, xử lý 23 vụ.
Đoàn giám sát kiến nghị ban hành kế hoạch thực hiện Quy hoạch điện VIII, Quy hoạch tổng thể năng lượng quốc gia, danh mục các dự án phát triển năng lượng quan trọng quốc gia, cấp bách trong giai đoạn 2023-2030.
Song song với đó, đoàn giám sát cho rằng cần nghiên cứu, rà soát, đánh giá tác động, có cơ chế phù hợp, nếu cần thiết đề xuất cơ chế đặc thù để triển khai kịp tiến độ các dự án nguồn và lưới điện cấp bách theo quy hoạch.
"Không để thiếu điện, than, xăng dầu và khí đốt cho nền kinh tế, sinh hoạt của người dân trong mọi tình huống", báo cáo của đoàn giám sát nêu rõ.