Khắc phục sai sót trong chi chuyển nguồn
Qua kiểm toán ngân sách địa phương (NSĐP), Kiểm toán nhà nước (KTNN) khu vực X đã phát hiện nhiều sai sót trong hoạt động chi chuyển nguồn, chủ yếu xuất phát từ các quy định chưa đầy đủ, rõ ràng. Từ thực tế đó, KTNN khu vực X kiến nghị cần làm rõ, bổ sung một số quy định để khắc phục sai sót trong chi chuyển nguồn.

Hội nghị công bố Quyết định kiểm toán của KTNN khu vực X đối với các tỉnh: Tuyên Quang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn và Hà Giang. Ảnh: ST
Chi chuyển nguồn “ảo”, không thu hồi được...
Kết quả kiểm toán NSĐP của KTNN khu vực X cho thấy, một số địa phương xây dựng phương án sử dụng tăng thu, tiết kiệm chi trình Thường trực Hội đồng nhân dân (HĐND) các cấp thông qua để thực hiện chi chuyển nguồn sang năm sau. Tuy nhiên, các nội dung chi không phù hợp với nhiệm vụ chi theo khoản 2 Điều 59 của Luật Ngân sách nhà nước - NSNN (không ưu tiên các nhiệm vụ chi theo quy định; sử dụng vào chi thường xuyên; bố trí nhiệm vụ chi chung chung, không cụ thể…). Việc chi chuyển nguồn không đúng quy định nhằm làm giảm kết dư ngân sách, từ đó tránh trích lập Quỹ dự trữ tài chính và 70% nguồn cải cách tiền lương theo quy định - đây là hiện tượng khá phổ biến tại các địa phương được KTNN khu vực X kiểm toán.
Qua kiểm toán, KTNN khu vực X còn kiến nghị quy định rõ trường hợp nào điều chỉnh dự toán ngân sách thuộc thẩm quyền của HĐND các cấp; trường hợp nào điều chỉnh dự toán ngân sách thuộc thẩm quyền của Thường trực HĐND các cấp. Bổ sung nhiệm vụ và quyền hạn của UBND các cấp trong việc điều hành dự toán thu, chi ngân sách hằng năm như: Được quyết định các nguồn kinh phí đã được HĐND phê chuẩn trong dự toán ngân sách nhưng chưa giao nhiệm vụ cụ thể và chưa xác định được đơn vị thụ hưởng; nguồn ngân sách cấp trên bổ sung có mục tiêu cho ngân sách cấp dưới; nguồn cải cách tiền lương còn dư...
Ngoài ra, một số khoản chi chuyển nguồn đầu tư phát triển sang năm sau được thực hiện theo quy định của Luật Đầu tư công nhưng chưa được cơ quan có thẩm quyền cho phép kéo dài thời gian thực hiện. Đối với các dự án bị ảnh hưởng tiến độ do thiên tai, thảm họa, dịch bệnh hoặc nguyên nhân khách quan khác không thể lường trước và không thể khắc phục, dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết, nhưng hồ sơ kiểm tra chi tiết lại không phản ánh được đầy đủ lý do và nguyên nhân.
Kết quả kiểm toán cũng ghi nhận một số khoản chi chuyển nguồn không đầy đủ thủ tục, không đúng thời hạn; hồ sơ không hoàn chỉnh; chậm trễ khiến việc điều chỉnh quyết toán kéo dài. Có hiện tượng chuyển nguồn đối với khoản đã hết nhiệm vụ chi hoặc nguồn ngân sách cấp trên đã hết thời hạn sử dụng theo quy định của Luật NSNN và Luật Đầu tư công nhằm giữ lại, không nộp trả ngân sách cấp trên. Điều này đồng thời làm tăng chi ngân sách, tạo cơ sở lập dự toán chi năm sau cao hơn năm trước.
Bên cạnh đó, có địa phương không thực hiện chuyển nguồn đối với các khoản còn nhiệm vụ chi. Việc chuyển nguồn tăng thu cũng được thực hiện khi chưa có tờ trình xin ý kiến của Thường trực HĐND. Một số khoản kinh phí do cơ quan tài chính quản lý chưa phân bổ, song cơ quan này vẫn gửi văn bản đề nghị Kho bạc Nhà nước thực hiện chi chuyển nguồn. Có trường hợp chi chuyển nguồn vượt quá số tiền thực còn tồn tại tại thời điểm quyết toán (do hụt thu không điều chỉnh dự toán, hoặc do cắt giảm dự toán chi), dẫn đến phát sinh khoản “chi chuyển nguồn ảo”.
Ngoài ra, việc chi chuyển nguồn đối với các khoản tạm ứng, ứng trước đã quá hạn thu hồi kéo dài qua nhiều năm - dù trái luật - vẫn chưa được thu hồi.
Cần cụ thể hóa một số quy định
Từ thực tiễn kiểm toán, KTNN khu vực X đặt ra một số vấn đề cần được làm rõ:
Thứ nhất,theo quy định hiện hành, các địa phương được phép chuyển nguồn các khoản tăng thu, tiết kiệm chi nếu được cấp có thẩm quyền phê duyệt cho sử dụng vào năm sau. Tuy nhiên, khái niệm “tiết kiệm chi” hiện đang được hiểu chưa thống nhất. Khoản 2 Điều 59 của Luật NSNN quy định “tiết kiệm chi” là “số tiết kiệm chi ngân sách so với dự toán”. Tuy nhiên, thực tế cho thấy có những khoản thu, chi không sử dụng hết (không có dự toán đầu năm), hoặc có dự toán nhưng không triển khai hoặc triển khai không hết nhiệm vụ… liệu có được tính là “tiết kiệm chi” để lập phương án chuyển nguồn hay không hiện vẫn chưa được hướng dẫn rõ.
Các khoản điển hình như: Kinh phí chi thường xuyên do HĐND tỉnh giao đầu năm nhưng chưa phân bổ chi tiết cho đơn vị sử dụng; kinh phí chi thường xuyên bị hủy dự toán khi hết niên độ; hay nguồn vốn trung ương bổ sung có mục tiêu nhưng chưa kịp phân bổ trong năm… đều chưa rõ có thuộc khái niệm “tiết kiệm chi”.
Vì vậy, cần có Hướng dẫn quy định rõ phương pháp xác định tăng thu, tiết kiệm chi hằng năm; cụ thể hóa việc loại trừ nguồn thu kết dư khỏi thu cân đối ngân sách để tính tăng thu hằng năm của địa phương và xác định rõ khoản kinh phí nào được coi là “tiết kiệm chi”.
Thứ hai,hiện một số cơ quan, đơn vị hiểu rằng nội dung chi từ nguồn kết dư ngân sách phải thực hiện theo khoản 2 Điều 59 Luật NSNN, bao gồm: Bổ sung Quỹ dự trữ tài chính; bổ sung nguồn thực hiện chính sách tiền lương; thực hiện một số chính sách an sinh xã hội; tăng chi đầu tư cho một số dự án quan trọng. Tuy nhiên, kết dư đã được hạch toán là thu ngân sách nên việc sử dụng nguồn này để chi cho nhiệm vụ gì thuộc thẩm quyền của HĐND các cấp.
Trong trường hợp nội dung chi từ kết dư ngân sách chỉ giới hạn trong các nhiệm vụ tại khoản 2 Điều 59, các địa phương sẽ gặp khó khăn trong điều hành ngân sách. Nhiều nhiệm vụ chi theo quyết định của cấp thẩm quyền - như mua sắm, sửa chữa; quy hoạch; chuyển đổi số; hay một số chính sách đặc thù của địa phương - không thể được thực hiện vì không có nguồn kinh phí ngoài kết dư.
Thêm vào đó, các khoản kết dư của địa phương nếu không sử dụng hết sẽ phải nộp trả ngân sách trung ương và không thể bố trí lại cho các chế độ, chính sách do Trung ương hoặc địa phương ban hành; đầu tư công; hỗ trợ quốc phòng, an ninh; hay phòng, chống dịch bệnh. Trong khi đó, nguồn kết dư có thể được dùng để chi cho các nhiệm vụ đặc thù địa phương mà Trung ương không cấp hoặc cho một số nhiệm vụ của Trung ương nhưng theo luật lại thuộc trách nhiệm của NSĐP.
Vì vậy, cần quy định rõ ràng hơn nội dung chi từ nguồn kết dư ngân sách, bảo đảm tính chủ động, linh hoạt trong điều hành NSĐP.
Thứ ba, chi chuyển nguồn chi đầu tư phát triển thực hiện theo quy định của Luật Đầu tư công. Theo đó, thẩm quyền cho phép chuyển nguồn vốn đầu tư công NSĐP là HĐND tỉnh. Điều này có nghĩa HĐND tỉnh phải quyết định cả việc chuyển nguồn vốn đầu tư công của toàn bộ ngân sách các cấp. Tuy nhiên, Luật NSNN lại quy định rằng “dự toán cấp nào thì cấp đó quyết định”.
Do đó, việc HĐND tỉnh không quyết định kế hoạch đầu tư công nhưng lại quyết định chuyển nguồn đầu tư công các cấp đã làm giảm tính chủ động trong điều hành NSĐP. Thêm vào đó, tổng hợp nhu cầu chuyển nguồn đầu tư công toàn tỉnh và chờ kỳ họp HĐND tỉnh để quyết định có thể gây kéo dài thời gian, ảnh hưởng tiến độ giải ngân vốn đầu tư của các dự án.
Từ đó, KTNN khu vực X kiến nghị cần có quy định để trao thẩm quyền cho HĐND các cấp trong việc quyết định chuyển nguồn vốn đầu tư công thuộc cấp mình, nhằm bảo đảm tính chủ động và hiệu quả trong triển khai vốn đầu tư công ở địa phương./.
Nguồn Kiểm Toán: http://baokiemtoan.vn/khac-phuc-sai-sot-trong-chi-chuyen-nguon-41258.html