Khai mở tiềm năng ngành khoáng sản bằng chính sách tài chính hài hòa
Việt Nam sở hữu nhiều loại khoáng sản có giá trị chiến lược (như đất hiếm, vonfram, bauxite) trong chuỗi cung ứng toàn cầu về công nghệ cao, năng lượng tái tạo, sản xuất pin, chip bán dẫn và quốc phòng.

Hội thảo “Chính sách tài chính cho ngành công nghiệp khoáng sản” do Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cùng Hội Khoa học và Công nghệ Mỏ Việt Nam phối hợp tổ chức vào ngày 15/10. (Ảnh: Vietnam+)
Ngành công nghiệp khai khoáng Việt Nam đang đứng trước những cơ hội, song cũng nhiều thách thức lớn trong bối cảnh các nguồn tài nguyên chiến lược ngày càng có vai trò quan trọng trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Theo đó, việc hoàn thiện chính sách tài chính là một yêu cầu cấp bách để hiện thực hóa tiềm năng to lớn của ngành.
Tại Hội thảo “Chính sách tài chính cho ngành công nghiệp khoáng sản” do Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cùng Hội Khoa học và Công nghệ Mỏ Việt Nam phối hợp tổ chức vào ngày 15/10, các chuyên gia và doanh nghiệp đã cùng phân tích thực trạng, chỉ ra những bất cập và đề xuất các giải pháp mang tính đột phá, nhằm kiến tạo một khuôn khổ tài chính minh bạch, công bằng và khuyến khích đầu tư bền vững.
Chồng chéo chính sách
Nhấn mạnh tầm quan trọng chiến lược của ngành khai khoáng Việt Nam, ông Đậu Anh Tuấn, Phó Tổng Thư ký VCCI chỉ ra đây là ngành có vai trò quan trọng trong nền kinh tế, từ cung cấp nguyên liệu đầu vào thiết yếu cho nhiều ngành công nghiệp nền tảng (như luyện kim, năng lượng, vật liệu xây dựng) đồng thời là nguồn thu lớn cho ngân sách Nhà nước. Theo ông Tuấn, Việt Nam sở hữu nhiều loại khoáng sản có giá trị chiến lược, trong đó có đất hiếm, vonfram, bauxite - những nguyên tố đóng vai trò then chốt trong chuỗi cung ứng toàn cầu về công nghệ cao, năng lượng tái tạo, sản xuất pin, chip bán dẫn và quốc phòng.
Tuy nhiên, vị Phó Tổng Thư ký VCCI cũng thẳng thắn chỉ ra điểm nghẽn lớn nhất đang cản trở sự phát triển của ngành là tình trạng "chồng thuế" và nghĩa vụ tài chính quá cao.
"Các doanh nghiệp khai khoáng hiện đang phải thực hiện đồng thời hai nghĩa vụ tài chính lớn. Đó là thuế tài nguyên theo Luật Thuế tài nguyên 2009 và tiền cấp quyền khai thác khoáng sản theo Luật Khoáng sản 2010 (tiếp tục được kế thừa trong Luật Địa chất và Khoáng sản 2024)," ông nói.
Cả hai khoản thu này về bản chất đều nhằm bảo đảm Nhà nước thu được phần giá trị từ tài sản công là tài nguyên khoáng sản. Song, việc cùng lúc áp dụng hai cơ chế tài chính đánh vào cùng một đối tượng đã và đang đặt ra những vấn đề thực tiễn, pháp lý và kinh tế đáng quan tâm. Theo phản ánh từ cộng đồng doanh nghiệp, tổng mức nghĩa vụ tài chính hiện nay đang cao vượt trội so với thông lệ quốc tế, có thể chiếm tới 30-40% doanh thu.

Ông Đậu Anh Tuấn chỉ ra điểm nghẽn lớn nhất đang cản trở sự phát triển của ngành là tình trạng "chồng thuế" và nghĩa vụ tài chính quá cao. (Ảnh: Vietnam+)
Để so sánh, ông Tuấn chỉ ra các quốc gia có ngành khai khoáng phát triển (như Australia, Canada, Indonesia) thường chỉ áp dụng một cơ chế thuế tài nguyên (royalty) linh hoạt, kết hợp với thuế thu nhập doanh nghiệpvới tổng mức thu thấp hơn đáng kể.
Do đó, đại diện VCCI cảnh báo sự chồng lấn về bản chất giữa thuế tài nguyên và tiền cấp quyền đang làm tăng chi phí, giảm sức cạnh tranh của doanh nghiệp nội địa, đồng thời tạo ra những rủi ro pháp lý và làm méo mó các động lực đầu tư vào khai thác hiệu quả và chế biến sâu – vốn là định hướng xuyên suốt trong Nghị quyết 10-NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lược phát triển ngành khoáng sản đến năm 2030, tầm nhìn 2045.
Làm rõ hơn về các nghĩa vụ tài chính mà doanh nghiệp đang phải gánh chịu, ông Nguyễn Văn Phụng, Chuyên gia cao cấp về Thuế, cho biết ngoài tiền cấp quyền khai thác khoáng sản và thuế tài nguyên, doanh nghiệp còn chịu nhiều loại thuế và nghĩa vụ tài chính khác như thuế giá trị gia tăng, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế sử dụng đất phi nông nghiệp và tiền thuê đất, thuế bảo vệ môi trường (đối với than đá) cùng hàng loạt các loại phí, lệ phí liên quan đến cấp phép hoạt động, bảo vệ môi trường, hoàn trả chi phí thăm dò và đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng.
Ông Phụng đặc biệt lưu ý về Luật Thuế giá trị gia tăng mới (số 48/2024/QH15) và Nghị định hướng dẫn (số 181/2025/NĐ-CP) quy định không khuyến khích xuất khẩu/hạn chế xuất khẩu các tài nguyên, khoáng sản thô, do đó không được áp dụng thuế suất 0%, không được khấu trừ và hoàn thuế giá trị gia tăng đầu vào. Điều này gây bất lợi lớn khi doanh nghiệp phải tính thuế giá trị gia tăng đầu vào vào giá thành sản phẩm.
Quy trình cấp phép phức tạp
Từ góc độ doanh nghiệp, ông Phan Chiến Thắng, Phó Tổng Giám đốc Masan High-tech Materials (MHT), cho biết các khoáng sản như vonfram, fluorspar và bismut không chỉ là nguồn nguyên liệu thiết yếu cho tăng trưởng kinh tế mà còn đóng vai trò then chốt trong các ứng dụng công nghệ cao tương lai, từ vi mạch tích hợp, pin sạc nhanh, in 3D đến năng lượng nguyên tử và quốc phòng. Hiện, MHT có những đóng góp đáng kể cho ngân sách Nhà nước (trên 1.000 tỷ đồng/năm) và hỗ trợ phát triển kinh tế-xã hội địa phương.
Song, ông Thắng chỉ ra những thách thức mà doanh nghiệp đang đối mặt. Đó là các quy trình cấp phép còn phức tạp, kéo dài, gây mất cơ hội đầu tư và tận dụng thời điểm thị trường thuận lợi.
"Một trong những rào cản lớn nhất là sự thay đổi chính sách tài chính so với thời điểm đầu tư, khiến lợi ích kinh tế của dự án giảm sút đáng kể," ông Thắng cho hay.
Cụ thể, ông Thắng lấy ví dụ về thuế suất tài nguyên khi doanh nghiệp đầu tư là dưới 10% (trước năm 2010). Sau doanh nghiệp đầu tư và đi vào hoạt động, thuế suất thay đổi với mức 6%-25%, cùng với sự xuất hiện của tiền cấp quyền khai thác khoáng sản (từ 2013) và phí bảo vệ môi trường (từ 2016), đẩy tổng thuế phí (chưa bao gồm thuế thu nhập doanh nghiệp) lên tới 24%-26% doanh thu.
Thêm vào đó, ông Thắng cũng nêu bật sự thiếu nhất quán trong chính sách thuế giá trị gia tăng và thuế xuất khẩu, khi các sản phẩm đã chế biến sâu vẫn phải chịu thuế xuất khẩu cao hoặc không được hoàn thuế giá trị gia tăng đầu vào, làm giảm sức cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam trên thị trường quốc tế. Cụ thể, thuế thu nhập doanh nghiệp cao (50% cho khoáng sản quý hiếm) và việc không áp dụng ưu đãi thuế cho dự án thăm dò, khai thác, chế biến khoáng sản cũng là một trở ngại.
Mang đến góc nhìn quốc tế, ông Bùi Ngọc Tuấn, Phó Tổng Giám đốc Dịch vụ Tư vấn thuế - Deloitte Việt Nam nhấn mạnh, Việt Nam với trữ lượng lớn và tiềm năng khai thác cao, đồng thời là điểm đến hấp dẫn, nhưng để khai thác những tiềm năng này, cần có một hệ thống chính sách tài chính hài hòa với thông lệ quốc tế, tránh tạo ra gánh nặng kép cho doanh nghiệp.
Công khai cách tính, tỷ lệ thuế phí
Trước những thực trạng và thách thức đã được chỉ ra, ông Nguyễn Tiến Chỉnh, Trưởng Ban Khoa học Công nghệ - Hội Khoa học Công nghệ Mỏ Việt Nam kiến nghị rà soát và gộp thuế tài nguyên cùng tiền cấp quyền khai thác khoáng sản thành một loại thuế tài nguyên duy nhất (royalty) do Bộ Tài chính thống nhất quản lý. Điều này không chỉ giúp tránh trùng thu mà còn giảm bớt thủ tục hành chính, tăng tính minh bạch.
"Chúng ta cần áp dụng cơ chế ưu đãi có điều kiện, miễn giảm thuế tài nguyên (tiền cấp quyền) đối với các mỏ khó khăn, quặng nghèo và giảm thuế cho các doanh nghiệp đầu tư chế biến sâu hoặc thu hồi khoáng sản đi kèm," ông Chỉnh đề xuất.

Bộ Tài nguyên và Môi trường cùng Bộ Tài chính sẽ tiếp tục nghiên cứu sâu hơn để giải quyết triệt để tình trạng chồng chéo và gánh nặng tài chính. (Ảnh minh họa/TTXVN phát)
Đồng quan điểm, ông Phan Chiến Thắng cũng đề xuất thống nhất hai khoản thu thành một với mức thuế suất tham chiếu thông lệ quốc tế khoảng 3%-8% doanh thu tổng tất cả các loại thuế, để đảm bảo tính cạnh tranh khu vực và quốc tế.
Ngoài ra, ông cũng kiến nghị áp dụng thuế suất 0% đối với khoáng sản đã chế biến sâu khi xuất khẩu và rà soát quy định để đảm bảo hoàn thuế giá trị gia tăng đối với các sản phẩm này. Đối với thuế thu nhập doanh nghiệp, cần áp dụng mức thuế suất chuẩn 20% cho các doanh nghiệp khai thác khoáng sản chiến lược, thay vì mức 50% hiện nay.
Tại hội thảo, đại diện Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho biết các quy định về tiền cấp quyền khai thác khoáng sản theo Nghị định 193/2025/NĐ-CP (hướng dẫn Luật Địa chất và Khoáng sản 2024) đã có những điều chỉnh, chi tiết hơn về cách xác định, phê duyệt và phân cấp quản lý khoản thu này, thể hiện nỗ lực của Nhà nước trong việc hoàn thiện khung pháp lý. Tuy nhiên, các đại biểu tại hội thảo vẫn mong muốn Bộ Nông nghiệp và Môi trường cùng Bộ Tài chính sẽ tiếp tục nghiên cứu sâu hơn để giải quyết triệt để tình trạng chồng chéo và gánh nặng tài chính./.