Khai phá tiềm năng 'tỉ đô' của công nghiệp văn hóa
Xuyên suốt lịch sử phát triển, văn hóa luôn giữ vai trò 'cầu nối' - thúc đẩy hợp tác kinh tế giữa các quốc gia, vùng, miền. Bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, công nghiệp văn hóa là 'kho báu' Việt Nam cần khai mở nhằm nâng tầm sáng tạo và thương hiệu quốc gia.
Công nghiệp văn hóa vẫn phát triển dưới tiềm năng
Hơn 600 di tính và hiện vận lịch sử được số hóa thành hình ảnh, mô hình 3D và lưu trữ tại bảo tàng trực tuyến, giúp khách hàng và nhà nghiên cứu văn hóa - kiến trúc - lịch sử dễ dàng chiêm ngưỡng di tích, văn vật lịch sử từ mọi góc độ, trên mọi thiết bị thông minh. Đồng thời, ghi nhận thông tin chi tiết về nguồn gốc lịch sử, kích thước thực tế của văn vật, di tích chỉ với một thao tác click chuột… Tất cả đều được tạo từ nỗ lực đơn lẻ của Nguyễn Trí Quang, một người trẻ, từ hơn 10 năm trước.

Từng góc cạnh, phối cảnh, kiến trúc của Chùa Thiên Mụ (Huế) được số hóa và lưu trữ nền tảng trực tuyến. (Ảnh minh họa)
Trong lĩnh vực trình diễn, những buổi diễn thuộc chương trình “À Ố Show” tại nhiều sân khấu trong và ngoài nước, với xiếc tre, nhào lộn và múa đương đại, đã giúp khán giả có được trải nghiệm đa dạng và có chiều sâu về đời sống, văn hóa, con người Việt Nam, từ miền quê tới thành thị. Thậm chí, giai đoạn dịch Covid-19 bùng phát tại TPHCM, khiến lượng du khách nước ngoài tới với thành phố giảm đáng kể, thì khán phòng trong mỗi buổi diễn vẫn kín chỗ tới phút cuối cùng.
Hay gần đây, những bức tranh về phố phường Hà Nội, khung cảnh thiên niên và con người Tây Bắc, chân dung phụ nữ Việt Nam… được tạo nên từ những loại sợi truyền thống của Việt Nam, và kỹ thuật “fiber layering” – khâu tay hoàn toàn, chồng nhiều lớp chỉ lên nhau để tạo nên bề mặt dày, giàu chất liệu và chiều sâu thị giác – thể hiện sự giao thoa giữa kỹ thuật thủ công tỉ mỉ và tư duy nghệ thuật đương đại, cũng nhận được sự đón nhận tích cực từ những người yêu nghệ thuật. Thậm chí, một số tác phẩm được tác giả - nghệ sĩ Nguyễn Phương Thảo - trưng bày tại một triển lãm nhỏ tại Hà Nội, đã được một nhà sưu tầm nghệ thuật mua toàn bộ.
Tương tự, lĩnh vực điện ảnh cũng có những bộ phim lịch sử, thu hút sự quan tâm lớn từ công chúng như “Mưa đỏ” với doanh thu 700 tỉ đồng.
Tất cả cho thấy tiềm năng lớn của ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam. Thậm chí, trong bối cảnh nước ta hội nhập sâu rộng với kinh tế thế giới, văn hóa còn giữ vai trò “cầu nối”, thúc đẩy hợp tác kinh tế giữa các quốc gia.
Ông Hong Sun, Chủ tịch Hiệp hội doanh nghiệp Hàn Quốc tại Việt Nam (KoCham), đánh giá những nét tương đồng về văn hóa, tôn giáo, cũng như con người giữa Việt Nam với Hàn Quốc đã tạo nên sự gần gũi, yên tâm, dễ thích nghi và là yếu tố giúp nước ta đón nhận hơn 10.000 doanh nghiệp Hàn Quốc, lớn hơn tổng số doanh nghiệp Hàn Quốc đang hoạt động tại các quốc gia Đông Nam Á còn lại.
Do đó, văn hóa không những không tách rời, mà luôn gắn với kinh tế và hỗ trợ mở rộng hợp tác kinh tế. “Cần chú trọng đến văn hóa như một điểm tựa, góp phần phát triển kinh tế, cũng như quan hệ hợp tác giữa các quốc gia”, ông Hong Sun lưu ý.
Kỳ vọng lớn là vậy, nhưng quy mô thị trường văn hóa sáng tạo của Việt Nam mới chỉ chiếm khoảng 4% GDP, thấp hơn nhiều so với khoảng 7-10% của các quốc gia trong khu vực, theo lời của đại biểu Trần Thị Hồng Thanh (đoàn Ninh Bình) tại hội trường Quốc hội chiều 29-10.
Hơn nữa, hạ tầng sáng tạo chưa đồng bộ, cơ chế chính sách khuyến khích đầu tư, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và thị trường lao động sáng tạo còn hạn chế. Thậm chí, nhiều địa phương chưa có chiến lược riêng cho phát triển công nghiệp văn hóa. Còn công tác quy hoạch, đào tạo nhân lực và liên kết vùng chưa rõ nét.
Khai phá tiềm năng “tỉ đô” từ đâu?
Khi văn hóa trở thành nền tảng thể chế mềm, công nghiệp văn hóa không chỉ tạo ra sản phẩm, dịch vụ sáng tạo, mà phải kiến tạo bản sắc địa phương, gia tăng sức hấp dẫn của môi trường đầu tư.
Thực tế, Đảng và Nhà nước xác định văn hóa là nguồn lực nội sinh của phát triển. Tại Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, yêu cầu “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc trên cơ sở phát huy giá trị văn hóa và con người Việt Nam như nguồn lực nội sinh đặc biệt” đã được đưa ra.
Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV tiếp tục đi theo quỹ đạo đó. Đồng thời, nhấn mạnh yêu cầu đột phá về thể chế, hoàn thiện khung chính sách cho nghiệp văn hóa và kinh tế sáng tạo, như một trong những trụ cột tăng trưởng mới.

Việc thưởng thức nghệ thuật dần trở thành một phần trong đời sống công chúng. Ảnh minh họa: H.T
Nhưng để ngành công nghiệp văn hóa đóng góp 7% GDP đến năm 2030 - theo nghị quyết của Quốc hội, và thực sự trở thành “cầu nối” thúc đẩy hợp tác kinh tế, đại biểu Trần Thị Hồng Thanh cho rằng cần hoàn thiện thể chế và cơ chế chính sách, thể hiện qua việc ban hành Luật phát triển công nghiệp văn hóa, để tạo khuôn khổ pháp lý đồng bộ, rõ ràng, hướng tới xây dựng một thị trường văn hóa lành mạnh, quy định rõ quyền sở hữu trí tuệ, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của tác giả, nhà sáng tạo.
Hơn nữa, khi yếu tố khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo được đặt ở trung tâm của mô hình tăng trưởng, cần hướng tới ứng dụng AI và công nghệ thực tế ảo vào bảo tồn di sản du lịch, văn hóa và nghệ thuật trình diễn.
Quan điểm này cũng được ThS Trần Thị Thùy Trang, Trường đại học Kiến trúc Đà Nẵng, chia sẻ trong tham luận tại hội thảo về công nghiệp văn hóa diễn ra tuần trước.
Theo đó, tại Thánh địa Mỹ Sơn, chính quyền địa phương đã triển website thực tế ảo VR 360 và bản đồ Metaverse/Map 3D, cho phép người dùng “bước vào” không gian kiến trúc Chăm Pa và tương tác như đang có mặt tại địa điểm, giúp tăng trải nghiệm nhập vai và khả năng tiếp cận từ xa.
Còn tại Di tích Nhà tù Hỏa Lò, đội ngũ truyền thông đã áp dụng nhiều hình thức truyền thông sáng tạo trên các nền tảng mạng xã hội như Facebook, Instagram, TikTok... để kể những câu chuyện lịch sử một cách trẻ trung và gần gũi, qua đó thu hút đông đảo công chúng với hơn 325.000 lượt thích trên Facebook và 7.945 người theo dõi trên Instagram.
Đây là hai trong số nhiều ví dụ điển hình về kể chuyện qua không gian số (digital storytelling), giúp gia tăng kết nối giữa di sản, giá trị lịch sử với cộng đồng. Đồng thời, thể hiện việc ứng dụng công nghệ số để nâng cao khả năng tiếp cận công chúng và tạo giá trị lan tỏa không chỉ là xu thế tất yếu, mà còn nền tảng để giá trị lịch sử - văn hóa thích ứng với môi trường toàn cầu hóa.
Do đó, các chính sách cần tập trung vào việc hỗ trợ quá trình số hóa di sản, tạo điều kiện thuận lợi về pháp lý và tài chính cho những dự án ứng dụng công nghệ trong bảo tồn văn hóa. Đồng thời, việc đào tạo nguồn nhân lực, sở hữu kiến thức văn hóa và kỹ năng công nghệ, là yếu tố then chốt để đảm bảo tính hiệu quả và bền vững của quá trình này.
Từ góc nhìn nhà đầu tư nước ngoài, ông Hong Sun cho biết Hàn Quốc đã có nhiều thành công trong việc đưa âm nhạc, phim ảnh… ra thế giới và tất cả đều bắt đầu bằng những kế hoạch của Chính phủ từ hàng chục năm trước.
Trong bối cảnh Việt Nam có nhiều doanh nghiệp phát triển với tốc độ cao và sở hữu tiềm năng vươn ra thế giới, nhưng còn hạn chế về ngôn ngữ và văn hóa, vị này cho rằng họ cần có sự hỗ trợ của Nhà nước để dám đầu tư và hợp tác với đối tác nước ngoài. Trong đó, văn hóa song hành cùng kinh tế là một chiến lược, thể hiện tầm nhìn và quyết tâm.
Nguồn Saigon Times: https://thesaigontimes.vn/khai-pha-tiem-nang-ti-do-cua-cong-nghiep-van-hoa/












