Khai thác, sử dụng hiệu quả nguồn nước

Tỉnh Long An tập trung đồng bộ, quyết liệt các giải pháp trong công tác quản lý, khai thác cũng như sử dụng tài nguyên nước (TNN), nhờ đó, công tác này ngày càng hoàn thiện, đi vào nề nếp, hợp lý, phát huy hiệu quả.

Sử dụng hợp lý, hiệu quả

Công tác quản lý nhà nước lĩnh vực TNN là một trong những nhiệm vụ trọng tâm được tỉnh chỉ đạo quyết liệt. Các văn bản được cụ thể hóa bằng nhiều giải pháp, việc làm thiết thực,... góp phần nâng cao hiệu quả quản lý, giúp sử dụng TNN hợp lý, hiệu quả và phù hợp với tình hình thực tế của địa phương. Các hệ thống cấp nước tập trung được tỉnh đầu tư, nâng cấp, đáp ứng ngày càng đầy đủ hơn nhu cầu dùng nước cho người dân, doanh nghiệp.

Việc cấp nước sạch phục vụ sinh hoạt, sản xuất được huyện Thạnh Hóa chú trọng. Hàng năm, địa phương luôn tổ chức kiểm tra, rà soát các hệ thống cấp nước để có lộ trình nâng cấp theo kế hoạch, ưu tiên cao nhất là bảo đảm cấp nước đầy đủ và sạch cho người dân sử dụng.

Tại xã Tân Tây, người dân thay đổi dần thói quen sử dụng nước trước đây, thay vào đó, họ đăng ký để sử dụng hệ thống cấp nước tập trung do địa phương đầu tư, nâng cấp, bảo đảm sức khỏe, góp phần nâng cao tỷ lệ sử dụng nước trên địa bàn.

Nguồn nước trên địa bàn tỉnh được sử dụng hợp lý, hiệu quả (Trong ảnh: Người dân xã Tân Tây, huyện Thạnh Hóa sử dụng nước sạch từ công trình cấp nước tập trung do địa phương đầu tư)

Nguồn nước trên địa bàn tỉnh được sử dụng hợp lý, hiệu quả (Trong ảnh: Người dân xã Tân Tây, huyện Thạnh Hóa sử dụng nước sạch từ công trình cấp nước tập trung do địa phương đầu tư)

Ông Mai Văn Thu (ấp 4, xã Tân Tây, huyện Thạnh Hóa) chia sẻ: “Dùng nước sạch là một trong những yêu cầu cấp thiết hiện nay. Do đó, khi hệ thống cấp nước tập trung được đầu tư, gia đình đăng ký tham gia. Nguồn nước sạch, mạnh giúp chúng tôi yên tâm khi sử dụng. Qua đây, chúng tôi nhận thấy rằng, việc khai thác, sử dụng nước của địa phương ngày càng hợp lý, hiệu quả”.

Theo Chủ tịch UBND huyện Thạnh Hóa - Phạm Tùng Chinh, công tác quản lý TNN trên địa bàn đạt những kết quả nhất định. Hàng năm, huyện đều dành nguồn lực đầu tư, nâng cấp hệ thống cấp nước tập trung từ nước hợp vệ sinh thành nước sạch và vận động người dân thực hiện đấu nối. Từ đó, cơ bản giải quyết nhu cầu về nước sinh hoạt cho người dân cũng như doanh nghiệp. Huyện tiếp tục rà soát, điều chỉnh, cập nhật nội dung cấp nước; tuyên truyền nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của nước sạch đối với đời sống con người và phát triển KT-XH gắn với bảo vệ môi trường, nguồn nước và các công trình cấp nước; kêu gọi mọi người sử dụng nước sạch tiết kiệm, bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu và suy thoái nguồn nước.

Đồng thời, huyện sẽ sửa chữa, cải tạo, nâng cấp, mở rộng công trình cấp nước sạch tập trung có sẵn như nâng cấp công nghệ xử lý chất lượng nước, nâng công suất, mở rộng mạng lưới cấp nước, ổn định nguồn nước khai thác trong điều kiện ảnh hưởng của thiên tai và biến đổi khí hậu.

Để chủ động cấp nước, huyện Cần Đước đầu tư, nâng cấp trạm cấp nước phục vụ người dân

Để chủ động cấp nước, huyện Cần Đước đầu tư, nâng cấp trạm cấp nước phục vụ người dân

Địa phương thường xuyên xảy ra tình trạng thiếu nước cục bộ vào mùa khô nên vấn đề sử dụng nước hợp lý, hiệu quả được huyện Cần Đước ưu tiên hàng đầu. Ngoài việc hỗ trợ, kêu gọi các dự án cấp nước, huyện chủ động đầu tư, nâng cấp hệ thống bảo đảm nguồn nước sử dụng cho người dân, doanh nghiệp.

Chủ tịch UBND huyện Cần Đước - Đào Hữu Tấn cho biết: “Huyện đưa vào vận hành 2 trạm cấp nước để bổ sung nguồn, phục vụ người dân vùng hạ của huyện trong năm qua. Chúng tôi tiến hành kiểm tra, rà soát lại toàn bộ hệ thống cấp nước và làm việc với các đơn vị yêu cầu có kế hoạch nâng cấp bảo đảm nguồn cung, khai thác và sử dụng hiệu quả. Huyện phối hợp hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn, đẩy mạnh một số công trình cấp nước đang thực hiện trên địa bàn”.

Nâng cao hiệu quả quản lý

Một trong những điểm nhấn trong vấn đề quản lý, khai thác, sử dụng TNN trên địa bàn chính là việc huy động nguồn lực ngoài ngân sách đầu tư các dự án dùng nước mặt phục vụ sinh hoạt, sản xuất.

Hiện nay, tỉnh có nhiều dự án, công trình khai thác, sử dụng nguồn nước mặt hoàn thành, đưa vào hoạt động. Những dự án này không chỉ phát huy thế mạnh nguồn nước mặt trong việc cấp nước phục vụ nhu cầu sinh hoạt, sản xuất của người dân, doanh nghiệp mà còn góp phần thiết thực bảo vệ nước ngầm trên địa bàn tỉnh.

Nhiều dự án dùng nguồn nước mặt góp phần nâng cao hiệu quả quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên nước (Trong ảnh: Nhà máy Nước Nhị Thành (huyện Thủ Thừa) đang nâng cấp công suất lên 120.000m3/ngày đêm để phục vụ nước sinh hoạt, sản xuất trên địa bàn)

Nhiều dự án dùng nguồn nước mặt góp phần nâng cao hiệu quả quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên nước (Trong ảnh: Nhà máy Nước Nhị Thành (huyện Thủ Thừa) đang nâng cấp công suất lên 120.000m3/ngày đêm để phục vụ nước sinh hoạt, sản xuất trên địa bàn)

Theo đại diện Công ty Cổ phần Nước Biwase - Long An (chủ đầu tư Nhà máy Nước Nhị Thành, huyện Thủ Thừa), nhà máy khai thác nguồn nước mặt, sau khi qua hệ thống xử lý cung cấp nguồn nước sạch phục vụ sinh hoạt, sản xuất cho một số địa phương trên địa bàn thông qua các đơn vị phân phối, giai đoạn 1, 2 của nhà máy có công suất 60.000m3/ngày đêm. Hiện nay, công ty triển khai giai đoạn 3 để nâng công suất lên 120.000m3/ngày đêm và dự kiến hoàn thành trong tháng 7/2025. Khi hoàn thành sẽ bảo đảm đầy đủ nguồn nước phục vụ sinh hoạt, sản xuất.

Bên cạnh đó, nhà máy còn cụ thể hóa chủ trương của Chính phủ, tỉnh, góp phần khai thác, sử dụng hợp lý nguồn nước mặt, giữ gìn và bảo vệ nguồn TNN ngầm trên toàn địa bàn, giảm sụt lún đất, hạn chế xâm nhập mặn ở Đồng bằng sông Cửu Long.

Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường (NN&MT) - Phan Văn Cường thông tin: Công tác quản lý TNN cơ bản đi vào nề nếp, trình tự, thủ tục cấp phép khai thác, sử dụng TNN được rà soát, cập nhật, công bố công khai, kịp thời. Việc giải quyết hồ sơ cấp phép và hồ sơ tính tiền cấp quyền khai thác TNN phải đồng thời và phù hợp theo quy định pháp luật về TNN hiện hành;...

Tỉnh đề ra nhiều giải pháp để bảo vệ TNN như ngăn chặn, hạn chế, phòng ngừa các vấn đề ô nhiễm nguồn nước mặt; khoanh định, công bố vùng hạn chế khai thác nước dưới đất; áp dụng các biện pháp quản lý, giảm thiểu và hạn chế việc khai thác nước dưới đất.

Bên cạnh đó, sự phối hợp chặt chẽ, kịp thời giữa các sở, ngành và địa phương liên quan trong việc thẩm định, xác định vùng bảo hộ vệ sinh, nghĩa vụ tài chính về tiền cấp quyền khai thác, thuế tài nguyên và phí bảo vệ môi trường,... đối với từng hồ sơ đề nghị cấp phép khai thác, sử dụng TNN, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý.

Tuy nhiên, hiện nay, nguồn TNN đứng trước nhiều nguy cơ, chịu ảnh hưởng rất lớn từ biến đổi khí hậu. Nước ngầm ngày càng khan hiếm, cạn kiệt, trong khi đó nguồn nước cũng giảm mạnh, một số vùng bị mặn hóa do tình trạng xâm nhập mặn, khô hạn gây ra;...

Để bảo đảm công tác quản lý TNN hiệu quả hơn, theo ông Phan Văn Cường, thời gian tới, Sở tiếp tục chủ động phối hợp các cơ quan, đơn vị có liên quan trong thẩm định cấp phép về TNN, trong công tác rà soát, thu tiền cấp quyền khai thác và công tác quản lý, xử lý giếng khai thác không có giấy phép, không được đăng ký;... thực hiện xử lý trám lấp các giếng khoan hư hỏng hoặc không sử dụng; kiểm tra, đôn đốc, nhắc nhở các doanh nghiệp khai thác TNN thực hiện lắp đặt thiết bị và kết nối dữ liệu giám sát tự động, trực tuyến đối với công trình khai thác, sử dụng TNN. Bên cạnh đó, Sở tham mưu UBND tỉnh xây dựng, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về TNN trên địa bàn.

Sở NN&MT đề xuất, kiến nghị một số nội dung trọng tâm. Bộ NN&MT cần quy định cụ thể về biểu mẫu thực hiện báo cáo tình hình khai thác, sử dụng TNN; quy định cụ thể về hoạt động của Hội đồng thẩm định cấp, gia hạn giấy phép TNN và phê duyệt tiền cấp quyền (thành phần, cơ cấu, tổ chức, trình tự, kinh phí của Hội đồng).

Bộ NN&MT sớm hoàn thiện, công bố số liệu kiểm kê TNN quốc gia, xây dựng cơ sở dữ liệu về TNN phục vụ công tác quản lý khai thác, sử dụng, bảo vệ TNN dưới đất hiệu quả; quy định hướng dẫn định mức kinh tế - kỹ thuật lập kế hoạch bảo vệ nước dưới đất làm cơ sở cho địa phương triển khai, thực hiện. Đồng thời, các bộ, ngành Trung ương quan tâm hỗ trợ nguồn kinh phí cho tỉnh đầu tư các hạng mục ưu tiên, cấp bách phòng, chống hạn, xâm nhập mặn, cụ thể: Đầu tư các công trình phòng, chống hạn, xâm nhập mặn trên địa bàn tỉnh; đầu tư, xây dựng hệ thống thủy lợi, các hồ dự trữ nước ngọt trên địa bàn tỉnh trước nguy cơ không còn mùa lũ và xâm nhập mặn sâu vào nội đồng để có đủ nguồn nước phục vụ sản xuất và dân sinh; đầu tư các cống phục vụ điều tiết nước, ngăn mặn, trữ ngọt cho vùng kẹp giữa 2 sông Vàm Cỏ Đông, Vàm Cỏ Tây (đoạn từ kênh Bến Lức - Thủ Thừa đến kênh Phước Xuyên, Thạnh Hóa) vì hiện nay, tại các vị trí đầu kênh tiếp giáp sông Vàm Cỏ Đông, Vàm Cỏ Tây chưa được đầu tư cống đầu mối để làm nhiệm vụ điều tiết nước ngăn mặn, trữ ngọt cho vùng lõi của 2 sông trước các tác động của nước mặn xâm nhập sâu vào các kênh, rạch nội đồng; đầu tư xây dựng hệ thống kiểm soát mặn (cống đập + đê bao) trên sông Vàm Cỏ để chủ động trong việc ngăn mặn xâm nhập từ cửa sông Soài Rạp vào 2 nhánh sông Vàm Cỏ Đông, Vàm Cỏ Tây;.../.

Sơn Quê

Nguồn Long An: https://baolongan.vn/khai-thac-su-dung-hieu-qua-nguon-nuoc-a192132.html