Khảo nghiệm 2 - 3 năm, doanh nghiệp phân bón lo mất cơ hội

Hiện, nhiều phân bón phù hợp với Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia (QCVN) nhưng vẫn phải khảo nghiệm, thủ tục kéo dài. Mỗi doanh nghiệp có hàng chục sản phẩm, 'nếu chờ khảo nghiệm mất 2 - 3 năm liệu có mất cơ hội?', đại diện doanh nghiệp lo ngại.

Gặp khó vì khảo nghiệm

Tại hội thảo “Một số bất cập của Luật Trồng trọt và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến lĩnh vực phân bón”, do Hiệp hội Phân bón Việt Nam phối hợp tổ chức sáng 11/9, các đại biểu đồng tình cho rằng, Luật Trồng trọt 2018 có hiệu lực từ ngày 1/1/2020 đã tạo hành lang pháp lý quan trọng cho hoạt động sản xuất, kinh doanh và quản lý trong lĩnh vực trồng trọt, đặc biệt là quản lý phân bón; phát huy tác dụng tích cực, góp phần thúc đẩy nông nghiệp phát triển.

Quang cảnh hội thảo. Ảnh: Đan Thanh

Quang cảnh hội thảo. Ảnh: Đan Thanh

TS. Nguyễn Trí Ngọc, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Phân bón Việt Nam bổ sung, Luật đã quy định cụ thể về quản lý hoạt động trồng trọt và các hoạt động liên quan như phân bón; kiểm soát chất lượng chặt chẽ khi phân bón được quy định là hàng hóa kinh doanh có điều kiện, yêu cầu doanh nghiệp phải có quyết định công nhận phân bón lưu hành tại Việt Nam. Cùng với đó, việc yêu cầu đáp ứng các chỉ tiêu chất lượng theo QCVN về chất lượng phân bón và kết quả khảo nghiệm giúp bảo đảm phân bón lưu hành đạt tiêu chuẩn; quyết định công nhận phân bón có thời hạn 5 năm và có thể gia hạn giúp Nhà nước quản lý và cập nhật các loại phân bón mới.

Dù vậy, việc triển khai Luật vẫn còn những hạn chế. Ông Ngọc phân tích, QCVN đã được ban hành, đó là hàng rào kỹ thuật quy định mức dinh dưỡng tối thiểu và mức tối đa các chất độc hại có trong phân bón. Song, theo quy định, hiện rất nhiều phân bón phù hợp với QCVN nhưng vẫn phải khảo nghiệm, thủ tục thực hiện quá dài, phức tạp, gây tốn kém kinh phí, làm chậm quá trình sản xuất của các doanh nghiệp.

Chia sẻ ý kiến trên, nguyên Tổng Giám đốc Công ty CP Phân lân nung chảy Văn Điển Hoàng Văn Tại bổ sung, các doanh nghiệp thường cộng tác với nhà khoa học nghiên cứu vùng thổ nhưỡng, từng loại đất, từng nhu cầu theo giai đoạn sinh trưởng của từng loại cây, để sản xuất các chủng loại phân phù hợp và có hướng dẫn rõ ràng cho người sử dụng, thậm chí đã đầu tư và hướng dẫn cho nông dân thí nghiệm nhiều vụ trên đồng ruộng của mình. “Vậy các cơ sở khảo nghiệm có làm được như vậy không, hay chỉ khảo nghiệm chung chung trên cơ sở đất đai, dụng cụ hiện có… của mình? Và như vậy kết quả khảo nghiệm có đáng tin cậy không?”, ông Tại đặt vấn đề.

Cũng theo vị chuyên gia, điều kiện để được công nhận là đơn vị khảo nghiệm chỉ yêu cầu “người trực tiếp phụ trách khảo nghiệm phải có trình độ từ đại học trở lên thuộc một trong các chuyên ngành về trồng trọt, bảo vệ thực vật, nông hóa thổ nhưỡng, khoa học đất, nông học, hóa học, sinh học”. Trong khi có hàng loạt các loại phân bón mới của hàng trăm doanh nghiệp xuất hiện hàng năm, “nếu phải chờ khảo nghiệm mất 2 - 3 năm thì có mất cơ hội làm ăn không?”.

Từ phân tích trên, đại diện doanh nghiệp đề xuất cần bỏ khảo nghiệm các loại phân bón đã được quy định tiêu chuẩn trong QCVN hoặc mở rộng bỏ khảo nghiệm các loại phân bón hỗn hợp NPK, trung, vi lượng; chỉ khảo nghiệm các loại phân bón có liên quan đến sinh học (vi sinh vật, nấm, điều hòa sinh trưởng…) và phân bón có yếu tố mới. “Trên thế giới, cơ bản các quốc gia cũng không áp dụng quy định khảo nghiệm đối với phân bón”, TS. Nguyễn Trí Ngọc thông tin.

Đề xuất bỏ chứng nhận hợp quy

Một rào cản lớn khác được doanh nghiệp, chuyên gia chỉ ra là quy định về chứng nhận hợp quy. Theo quy định hiện hành, phân bón thuộc đối tượng phải thực hiện chứng nhận hợp quy và công bố hợp quy. Trong khi, một sản phẩm phân bón trước khi được cấp quyết định công nhận phân bón lưu hành tại Việt Nam đã trải qua một quá trình kiểm tra, đánh giá của các cơ quan có chuyên môn; sản phẩm phân bón được ban hành bởi các QCVN. Đây là hàng rào kỹ thuật, là căn cứ để cơ quan quản lý nhà nước kiểm tra, giám sát chất lượng sản phẩm phân bón. Do đó, việc công bố hợp quy hiện nay không có ý nghĩa trong thực tế quản lý, hình thức và trùng lặp; làm tăng chi phí sản xuất và bỏ lỡ cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp, TS. Nguyễn Trí Ngọc nhìn nhận.

TS. Trương Hợp Tác, chuyên gia phân bón cũng cho rằng, việc bắt buộc chứng nhận và chứng nhận lại hợp quy phân bón gây lãng phí về tiền của, nhưng thực chất không quản lý được chất lượng tại nơi sản xuất và lưu thông trên thị trường. Bởi quá trình đánh giá chứng nhận chỉ xảy ra tại một số thời điểm, không phải suốt quá trình sản xuất, buôn bán, do vậy không có ý nghĩa trong quản lý. “Trong sản xuất, buôn bán, các doanh nghiệp tự chịu trách nhiệm về chất lượng, dưới sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan quản lý và nếu các cấp làm hết trách nhiệm của mình thì mới thực chất quản lý được chất lượng phân bón”, ông Tác tin tưởng.

Song song đó, theo các đại biểu, cần bỏ quy định về Quyết định công nhận phân bón lưu hành tại Việt Nam và các thủ tục hành chính kèm theo. Theo Nghị định số 84/2019/NĐ-CP về quản lý phân bón, trong thời hạn 3 tháng khi nhận đủ hồ sơ mới được xét cấp quyết định công nhận có thời hạn 5 năm. Bởi lẽ, TS. Nguyễn Trí Ngọc chỉ rõ, dù đã có hàng chục nghìn loại phân bón đã được cấp phép lưu hành song thực tế vẫn có hàng loạt phân bón kém chất lượng, phân bón giả. Tất cả những chi phí để được cấp quyết định công nhận, cấp lại đều được tính vào giá thành sản phẩm phân bón, cuối cùng người nông dân phải gánh chịu toàn bộ chi phí không cần thiết này. Việc bỏ quy định này cũng sẽ góp phần triển khai Nghị quyết số 68-NQ/TW là cắt giảm tối thiểu 30% chi phí tuân thủ, điều kiện kinh doanh.

Dẫn kinh nghiệm quốc tế về quản lý phân bón, TS. Trương Hợp Tác cho biết, ba chất dinh dưỡng đa lượng quan trọng trong phân bón được sản xuất, lưu thông với lượng lớn trên toàn thế giới là đạm (N), lân (P) và Kali (K) được quản lý chặt chẽ nhất, thống nhất mã HS trên toàn thế giới. Các nước cũng quản lý phân bón chủ yếu theo 2 nguồn: sản xuất trong nước và nhập khẩu (đơn vị sản xuất, địa điểm, quy mô nhà máy, số loại phân bón, số lượng và chất lượng từng phân bón sản xuất; đơn vị nhập khẩu, nguồn gốc nhập, thời điểm nhập, số lượng và chất lượng phân bón nhập khẩu). Tại EU, họ quy định theo từng văn bản, chủ yếu tập trung vào NPK; không hề có cấp phép, khảo nghiệm, cứ đủ tiêu chuẩn theo quy định là được phép sản xuất kinh doanh…

Đan Thanh

Nguồn Đại Biểu Nhân Dân: https://daibieunhandan.vn/khao-nghiem-2-3-nam-doanh-nghiep-phan-bon-lo-mat-co-hoi-10386404.html