Khi thuế thu nhập cá nhân không đánh trên thu nhập

Dư luận băn khoăn về nội dung thuế thu nhập cá nhân (TNCN) đối với hộ, cá nhân kinh doanh tại Dự thảo Luật Thuế TNCN sửa đổi, bổ sung dự kiến được Quốc hội thông qua tại Kỳ họp thứ 10 - Quốc hội khóa XV.

Điều 3 của Dự thảo quy định từ kinh doanh chịu thuế TNCN không bao gồm thu nhập của hộ, cá nhân sản xuất kinh doanh có doanh thu từ 200 triệu đồng/năm trở xuống, nghĩa là hộ, cá nhân kinh doanh có doanh thu từ trên 200 triệu đồng/năm sẽ phải chịu thuế TNCN. Thuế suất dao động từ 0,5% đến 5% tùy theo ngành nghề kinh doanh (xem bên dưới). Chính phủ điều chỉnh mức doanh thu nêu trên khoản này phù hợp với biến động của giá cả và tình hình kinh tế xã hội.

Doanh thu và thu nhập là hai khái niệm khác nhau nên áp thuế TNCN trên doanh thu từ trên 200 triệu đồng/năm là không phù hợp. Ảnh minh họa. Ảnh: Trung Dũng

Doanh thu và thu nhập là hai khái niệm khác nhau nên áp thuế TNCN trên doanh thu từ trên 200 triệu đồng/năm là không phù hợp. Ảnh minh họa. Ảnh: Trung Dũng

Số liệu 7 tháng đầu năm 2025 công bố tại Quyết định 3389 của Bộ trưởng Bộ Tài chính phê duyệt Đề án Chuyển đổi mô hình và phương pháp quản lý thuế đối với hộ kinh doanh khi xóa bỏ thuế khoán, Việt Nam hiện có 2,35 triệu hộ, cá nhân kinh doanh ổn định, trong đó khoảng 1,5 triệu hộ có doanh thu từ 200 triệu đồng/năm trở xuống; khoảng 791.000 hộ có doanh thu từ trên 200 triệu đồng/năm đến 3 tỉ đồng/năm; khoảng 12.000 hộ có doanh thu từ trên 3 tỉ đồng/năm đến 50 tỉ đồng/năm; và 1.464 hộ có doanh thu từ trên 50 tỉ đồng/năm.

Như vậy, nhóm hộ, cá nhân kinh doanh có doanh thu từ trên 200 triệu đồng/năm đến 3 tỉ đồng có cơ sở thuế rộng nhất, dẫn đến khả năng đóng góp nhiều nhất vào ngân sách. Cũng theo Bộ Tài chính, số thu thuế năm 2024 đạt 25.953 tỷ đồng, tăng 20% so với năm 2023. Trong 6 tháng đầu năm 2025, tổng số thu từ hộ, cá nhân kinh doanh đạt 17.100 tỷ đồng, bằng 131% so với cùng kỳ năm 2024.

Chưa đến 1.500 hộ, cá nhân kinh doanh chuyển đổi lên doanh nghiệp trong 6 tháng đầu năm 2025.

Nguồn: Bộ Tài chính

Không rõ cơ sở nào cơ quan soạn thảo đưa ra ngưỡng chịu thuế TNCN từ trên 200 triệu đồng/năm đối với hộ, cá nhân kinh doanh? Giả sử một gia đình hai vợ chồng và hai con chưa thành niên (người phụ thuộc) đăng ký hộ kinh doanh có doanh thu 201 triệu đồng/năm, tương đương với 16,75 triệu đồng/tháng. Theo Nghị quyết số 110/2025/UBTVQH15 áp dụng từ 1.1.2026, mức giảm trừ gia cảnh đối với người nộp thuế là 15,5 triệu đồng, người phụ thuộc (nếu có) là 6,2 triệu đồng/người. Như vậy, doanh thu bình quân của hộ kinh doanh chịu thuế trên còn thấp hơn mức giảm trừ gia cảnh của mỗi người nộp thuế có thêm người phụ thuộc. Tuy nhiên, giảm trừ gia cảnh chỉ được áp dụng với người nộp thuế có thu nhập từ tiền lương, tiền công là cá nhân cư trú (Điều 11 dự thảo). Việc ngưỡng chịu thuế TNCN từ tiền lương, tiền công cao hơn hộ kinh doanh cá thể bất lợi cho mục tiêu công bằng thuế.

Doanh thu và thu nhập là hai khái niệm khác nhau nên áp thuế TNCN trên doanh thu từ trên 200 triệu đồng/năm là không phù hợp. Hộ kinh doanh A bán một cây chổi đót với giá 10 đồng là doanh thu. Chi phí để bán được cây chổi đót gồm tiền công cho thợ, nguyên vật liệu và những chi phí hợp lý khác tốn 9 đồng. Hoàn tất giao dịch, hộ kinh doanh A phát sinh 1 đồng lợi nhuận, tức là thu nhập. Nhưng nếu dự thảo được Quốc hội thông qua tại kỳ họp này, hộ kinh doanh A phải nộp thuế TNCN cho toàn bộ 10 đồng doanh thu, trong đó có 9 đồng không phải thu nhập. Phát biểu tại nghị trường, đại biểu Trần Văn Lâm (Đoàn Bắc Ninh) cho rằng lãi (thu nhập - NV)/doanh thu của hộ kinh doanh thông thường dao động trong biên độ từ 3% đến 5%, giỏi nhất là 10%.

Ngoại trừ thuế TNCN, nhiều khoản thu nhập chịu thuế trong dự thảo luật thống nhất về cách tiếp cận. Chẳng hạn, thu nhập tính thuế từ chuyển nhượng vốn được xác định bằng giá bán trừ giá mua và các khoản chi phí hợp lý liên quan đến việc tạo ra thu nhập từ chuyển nhượng vốn (Điều 14 khoản 1 điểm a); thu nhập tính thuế từ chuyển nhượng chứng khoán được xác định bằng giá bán trừ giá mua và các khoản chi phí hợp lý liên quan đến việc tạo ra thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán trong kỳ tính thuế (theo năm) (Điều 14 khoản 2 điểm a); thu nhập tính thuế từ chuyển nhượng bất động sản được xác định bằng giá bán trừ giá mua và các khoản chi phí hợp lý liên quan đến việc tạo ra thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản (Điều 15 khoản 1 điểm a);…

Hộ, cá nhân kinh doanh là một cấu phần của khu vực kinh tế tư nhân. Không đủ năng lực tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu, nhưng lực lượng này góp phần giải quyết nhu cầu lao động đáng kể, giảm bớt gánh nặng an sinh xã hội đè lên vai Nhà nước. Trong 10 tháng đầu năm 2025, đã có thêm 190.600 doanh nghiệp rút khỏi thị trường, tương đương khoảng 1/5 số lượng doanh nghiệp Việt Nam, tăng hơn 10% so với cùng kỳ năm 2024.

Thượng Tùng

Điều 8 Dự thảo Luật Thuế TNCN

1. Thuế TNCN đối với thu nhập tử kính doanh của cá nhân cư trú được xác định bằng doanh thu từ hoạt động sản xuất, kinh doanh quy định tại khoản 2 Điều này nhân với thuế suất quy định tại khoản 3 Điều này.

2. Doanh thu là toàn bộ tiền bán hàng, tiền gia công, tiền cung ứng dịch vụ kể cả trợ giá, phụ thu, phụ trội mà cá nhân được hưởng, không phân biệt đã thu được tiền hay chưa thu được tiền. Trường hợp cá nhân kinh doanh không xác định được doanh thu thì cơ quan thuế có thẩm quyền ấn định doanh thu theo quy định của pháp luật về quản lý thuế.

3. Thuế suất:

a) Phân phối, cung cấp hàng hóa: 0,5%;

b) Dịch vụ, xây dựng không bao thầu nguyên vật liệu: 2%; Riêng hoạt động cho thuê tải sản, đại lý bảo hiểm, đại lý xổ số, đại lý bán hàng đa cấp: 5%;

c) Sản xuất, vận tải, dịch vụ có gắn với hàng hóa, xây dựng có bao thầu nguyên vật liệu: 1,5%;

d) Hoạt động cung cấp sản phẩm và dịch vụ phần mềm; sản phẩm và dịch vụ nội dung thông tin số về giải trí, trò chơi điện từ, phim số, ảnh số, nhạc số, quảng cáo số và các sản phẩm, dịch vụ số khác: 5%;

đ) Hoạt động kinh doanh khác: 1%.

Nguồn Người Đô Thị: https://nguoidothi.net.vn/khi-thue-thu-nhap-ca-nhan-khong-danh-tren-thu-nhap-50668.html