Khởi nguyên trước hoàng hôn

Mầm cây ngọn cỏ trở mình trỗi dậy đầy tế nhị và tinh khôi. Nắng gối đầu êm ả lên mấy bãi cỏ xanh mướt ven sông. Người Huế thật ngại khi phải bước lên những thảm cỏ ấy, bởi họ không muốn phá đi vẻ đẹp đương độ xuân thì của tự nhiên, dẫu cho đó chỉ là một ngọn cỏ ven đường. Đó là một trong vô vàn cách mà người Huế nâng niu mùa xuân. Và, chiều nay, tôi nâng niu tâm hồn mình bằng cách lên chùa Linh Mụ để ngắm hoàng hôn.

Ban chiều của những ngày mùa xuân đang trong độ mãn khai, trời và đất hiền hòa. Những hàng cây trong chùa Linh Mụ đứng đó xuất thế cuộc miên viễn tích tụ năng lượng. Đến mùa xuân, linh khí từ cây tỏa ra khiến người đứng dưới bóng cây cảm nhận một nguồn năng lượng được truyền vào châu thân. Có lẽ thế mà khi “mùa xuân chín”, con người ta luôn thấy yêu cuộc đời vô cớ. Chẳng cần một ai đến đánh thức hay lay tỉnh, tình yêu đời sống này cũng sẽ tự khắc trỗi dậy, cuồn cuộn và trào dâng, dẫu cho thế sự vẫn còn quá bộn bề bên vai.

Tiếng chuông giờ Ngọ vang lên khi mặt trời đến độ cao nhất, đến lúc này, mặt trời dần khuất núi, nhưng hình như thanh âm của chánh niệm vẫn còn vang vọng đâu đây trong tâm tưởng của tôi. Tôi nhận ra, đức tin của con người nào đâu vô thể, mà nó hữu thể. Như chiều nay, tôi thấy hình hài của đức tin được tiếng chuông hoài thai, và nó đang thị hiện trong làn nắng tàn ngày chiếu rọi qua đỉnh tháp Phước Duyên.

Tôi nhớ, ngày còn nhỏ, mệ tôi vẫn hay dẫn tôi lên chùa Linh Mụ để lễ Phật. Trong chiếc áo tràng, mệ đảnh lễ trước tôn tượng. Khói trầm trong chánh điện tỏa ra ngào ngạt. Và, trong mắt tôi, mệ thánh thiện đến vô cùng. Sau này, tôi đủ khả năng để đối thoại với ký ức, chiêm nghiệm lại quá khứ, tôi nhận ra đó là cách mà mệ tôi giáo dục tôi nên người. Không phải là những bài học khiên cưỡng với lý luận về đạo làm người, về chí khí đấng nam nhi, về tình yêu quê hương xứ sở; mà từ những hành động đẹp được toát ra từ một tâm hồn tao nhã…

Lúc này, mặt trời tất bật thu gom nắng về một mối ở phía núi đồi thượng nguồn sông Hương, tỏa xuống mặt sông một chút gì ấm áp sau cùng, trước khi đêm buông xuống và bóng đen phủ kín đất trời. Nắng trải ra giữa sông một dải lụa đào. Hương giang thực trẻ trung và rạng ngời nhưng chẳng hề sôi nổi. Tà dương có lộng lẫy và huy hoàng đến nhường nào đi chăng nữa, thì khúc sông ở đây vẫn cứ điềm nhiên và tĩnh lặng. Có lẽ, “điềm nhiên” và “tĩnh lặng” là bài học khắc cốt ghi tâm mà Trường Sơn đã căn dặn nó trước khi nó thoát thai, bài học ấy đã ăn sâu một cách thâm căn cố đế vào mạch ngầm lòng sông, vào ý thức dòng chảy từ thuở hồng hoang. Để khi lặng nhìn hoàng hôn từ phía chùa Linh Mụ, tôi thấy dáng vẻ của sông Hương như một cô học trò người Huế tuổi 18, được mạ dặn dò kỹ lưỡng trước khi lên thành phố trọ học.

Mặt trời đương rụng xuống núi đồi xa xăm, bên tê bờ, tre trúc ôm ấp mảnh đất Thủy Biều trù phú. Trên sông Hương, một vài chiếc thuyền rồng xuôi ngược. Một lát nữa thôi, khi đêm buông, câu ca sẽ ngân vang, vắt dòng nối kết giữa quá khứ và hiện tại, giữa hiện đại và cổ điển, giữa linh hồn và thể xác. Và, tôi sẽ lênh đênh trên một con thuyền khi hoàng hôn đã lụi tàn. Tôi đi tìm bản thể của tôi, đi tìm một triết lý của sông Hương, đi tìm chiếc chìa khóa đã bị ném lại đâu đó dưới chân núi Kim Phụng [1]. Một cuộc lênh đênh vô định trong không gian thăm thẳm. Ý nghĩ ấy khởi nguyên trước hoàng hôn.

[1] Cảm tác từ bút ký “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của nhà văn

Hoàng Phủ Ngọc Tường

Nguyễn Văn Đức Anh

Nguồn Thừa Thiên Huế: https://huengaynay.vn/doi-song/khoi-nguyen-truoc-hoang-hon-151188.html