Không để khai thác khoáng sản bừa bãi gây rủi ro môi trường
Sáng 1-12, các đại biểu (ĐB) Quốc hội thảo luận ở hội trường về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Địa chất và khoáng sản.

Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp - Môi trường Trần Đức Thắng phát biểu giải trình, làm rõ một số vấn đề đại biểu Quốc hội nêu, sáng 1-12. Ảnh QUANG PHÚC
Cần kiểm soát "hệ số rủi ro môi trường” từ việc khai thác đất hiếm
Thảo luận về dự án luật, vấn đề đất hiếm được nhiều ĐB quan tâm. ĐB Trịnh Thị Tú Anh (Lâm Đồng) đồng tình cao với việc bổ sung chương riêng về đất hiếm trong dự thảo luật. Đây là bước hoàn thiện pháp lý đúng thời điểm, phù hợp với bối cảnh thế giới đang cạnh tranh mạnh mẽ về vật liệu chiến lược, năng lượng tái tạo và chuỗi cung ứng công nghệ cao. Đất hiếm là nền tảng của sản xuất chất bán dẫn, xe điện, quốc phòng, thiết bị y tế và nhiều ngành mũi nhọn.
ĐB cho rằng, luật cần khẳng định nguyên tắc quản lý tài nguyên đất hiếm trên nền tảng khoa học và kiểm soát rủi ro nghiêm ngặt. Trong đó, yêu cầu về môi trường phải được đặt ở mức cao nhất. Đất hiếm không chỉ là khoáng sản chiến lược mà còn là nhóm tài nguyên có “hệ số rủi ro môi trường” rất lớn. Toàn bộ chuỗi tuyển – tách đều phát sinh chất thải chứa phóng xạ tự nhiên, thorium, uranium ở nồng độ thấp; ngoài ra còn có hỗn hợp kim loại nặng và dung dịch axit ở mức khó xử lý nếu không có công nghệ tiên tiến.
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, những quốc gia từng phát triển đất hiếm ồ ạt nhưng thiếu kiểm soát đã phải đối mặt với những “vùng ô nhiễm phóng xạ tồn lưu”, chi phí xử lý và phục hồi môi trường lớn gấp nhiều lần giá trị kinh tế thu được. Đây là bài học đắt giá mà Việt Nam không thể lặp lại.

Đại biểu Trịnh Thị Tú Anh (Lâm Đồng). Ảnh: QUANG PHÚC
Do đó, theo ĐB Trịnh Thị Tú Anh, cần phải đặt ra các ngưỡng an toàn kỹ thuật bắt buộc: công nghệ tuyển - tách khép kín, mô hình hóa phát tán phóng xạ, hệ thống quan trắc liên tục, phương án xử lý bùn thải đạt chuẩn và yêu cầu về phục hồi môi trường sau khai thác ngay từ giai đoạn cấp phép; chỉ những doanh nghiệp có năng lực công nghệ, năng lực tài chính và hệ thống quản trị môi trường đạt chuẩn quốc tế mới được phép tham gia.
ĐB cũng đề nghị cần nhấn mạnh vai trò giám sát độc lập của cơ quan an toàn bức xạ và hạt nhân quốc gia trong toàn bộ chuỗi hoạt động tuyển - tách - chế biến đất hiếm, từ thẩm định công nghệ, đánh giá rủi ro, kiểm tra hiện trường, đến giám sát xử lý chất thải và phục hồi môi trường. Mặt khác, khai thác đất hiếm tại các khu vực nhạy cảm hoặc khu vực liên quan quốc phòng, an ninh, bắt buộc phải có ý kiến thẩm định bằng văn bản của Bộ Quốc phòng và Bộ Công an.

ĐB Phạm Văn Hòa (Đồng Tháp). Ảnh: QUANG PHÚC
ĐB Nguyễn Tâm Hùng (TPHCM) cũng đồng tình và cho rằng, đất hiếm là tài nguyên chiến lược đặc biệt nhưng dự thảo chưa quy định cơ chế bảo đảm an toàn môi trường và xử lý chất thải phóng xạ, hóa học. Nếu không quản trị môi trường ngay từ luật, nhiều địa phương có thể đối diện ô nhiễm lâu dài.
Vì vậy, ĐB đề nghị bổ sung đánh giá rủi ro môi trường bắt buộc độc lập bởi bên thứ ba; ký quỹ phục hồi môi trường ở mức cao hơn mỏ khoáng sản thông thường; công bố định kỳ dữ liệu môi trường của các cơ sở chế biến đất hiếm. Đây là yêu cầu sống còn để bảo đảm phát triển bền vững.

Đại biểu Nguyễn Tâm Hùng (TPHCM). Ảnh: QUANG PHÚC
Chế tài xử phạt khai thác sai phải rất nghiêm
Dự thảo cho phép khai thác khoáng sản nhóm III và IV trong tình huống khẩn cấp mà không phải thực hiện thủ tục cấp phép. ĐB Nguyễn Tâm Hùng (TPHCM) thống nhất nguyên tắc tạo cơ chế phản ứng nhanh. Tuy nhiên, để hạn chế nguy cơ lạm dụng cơ chế khẩn cấp trong thực tế, ĐB đề nghị cân nhắc làm rõ tiêu chí xác định tình trạng khẩn cấp, kèm theo cơ chế hậu kiểm bắt buộc về sản lượng, thời điểm, khu vực và mục đích khai thác, nhằm bảo đảm tài nguyên không bị thất thoát và bảo đảm công khai, minh bạch.
ĐB Phạm Văn Hòa cũng đề nghị bổ sung quy định khai thác trong trường hợp khẩn cấp, yêu cầu siết chặt quản lý hoạt động khai thác khoáng sản, nhằm ngăn chặn lãng phí tài nguyên và bảo vệ môi trường. ĐB cảnh báo về những quy định lỏng lẻo cho phép khai thác trong tình trạng khẩn cấp đối với vật liệu thông thường, lo ngại điều này dẫn đến lạm dụng và gây ra các hiểm họa như sụt lún, sạt lở, cùng những tác động tiêu cực đến môi trường. Ví dụ, một dự án chỉ có thể khai thác 1.000m3 đất để không ảnh hưởng tới thiên tai, lũ lụt nhưng thực tế khai thác tới 2.000-3.000m3 thì rất nguy hiểm.
Do đó, ĐB Phạm Văn Hòa kiến nghị giới hạn phạm vi công trình để không lãng phí nguồn tài nguyên và ảnh hưởng tới môi trường. “Tình trạng bão lụt vừa qua cho thấy cần quy định nghiêm ngặt vấn đề khai thác khoáng sản để bảo vệ tài nguyên thiên thiên, bảo vệ cuộc sống của người dân. Không nên vì khẩn cấp mà bỏ qua việc kiểm soát các quy định chặt chẽ khác, song song đó, chế tài xử phạt khai thác sai phải rất nghiêm”, ĐB Phạm Văn Hòa nêu.
Giải trình trước Quốc hội, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp - Môi trường Trần Đức Thắng cho biết, Việt Nam là quốc gia có trữ lượng đất hiếm lớn thứ 2, 3 trên thế giới, thuộc địa bàn 21 địa phương. Nhận thức vai trò của đất hiếm, bộ đã tiến hành khoanh định khu vực có đất hiếm và sẽ trình Chính phủ ban hành quy hoạch quốc gia về đất hiếm vào đầu năm 2026. Dự án luật lần này đã có chương riêng về đất hiếm, bảo đảm quản lý, khai thác hiệu quả, hạn chế tối đa việc xuất khẩu thô đất hiếm.
Làm rõ băn khoăn của ĐB về vấn đề quy hoạch, phạm vi khai thác khoáng sản, Bộ trưởng Trần Đức Thắng nêu, quy định tại dự thảo luật chỉ áp dụng với các mỏ đang hoạt động không cần bổ sung thêm quy hoạch. Với các dự án mới dứt khoát phải có quy hoạch đầy đủ.
Với khoáng sản nhóm III – vật liệu xây dựng thông thường, các khu vực mỏ vẫn phải đảm bảo quy hoạch phù hợp với quy hoạch của tỉnh về quốc phòng, an ninh bảo vệ môi trường. Dự thảo cũng quy định yêu cầu tổ chức, cá nhân phải thăm dò trữ lượng khoáng sản, quy định kiểm kê... để giảm thiểu rủi ro và gây lãng phí tài nguyên của đất nước...











