Đại biểu Quốc hội cảnh báo nguy cơ thất thoát tài nguyên và sạt lở
Ngày 1/12, Quốc hội thảo luận ở hội trường về Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Địa chất và khoáng sản, các đại biểu Quốc hội đặt ra yêu cầu cấp thiết phải hoàn thiện cơ chế pháp lý, khi nhu cầu đất, đá, cát, sỏi cho xây dựng ngày càng lớn nhưng rủi ro thất thoát tài nguyên, sạt lở và tác động môi trường vẫn hiện hữu.
Nguồn cung lớn nhưng bị “tắc” vì thủ tục
Đề cập đến những vướng mắc trong thực tiễn, đại biểu Nguyễn Thị Lan Anh (Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Lào Cai) nhận định, nhiều hồ thủy điện tại các tỉnh miền núi đang tích tụ lượng lớn cát, sỏi - vốn là nguồn vật liệu xây dựng đang thiếu hụt trên cả nước. Tuy nhiên, việc nạo vét kết hợp thu hồi khoáng sản tại các khu vực này vẫn gần như dậm chân tại chỗ.

Đại biểu Nguyễn Thị Lan Anh (Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Lào Cai) nhận định, nhiều hồ thủy điện tại các tỉnh miền núi đang tích tụ lượng lớn cát, sỏi - vốn là nguồn vật liệu xây dựng đang thiếu hụt trên cả nước. Ảnh: Quochoi.vn
Theo đại biểu, nguyên nhân chủ yếu đến từ việc luật chưa quy định rõ ràng cơ chế để các doanh nghiệp độc lập được tham gia hoạt động nạo vét trong hồ thủy điện. Những câu hỏi như “chủ đập có thể ủy quyền?”, “nhà đầu tư ngoài có được tham gia?”, hay “việc lựa chọn đơn vị nạo vét theo đấu thầu, chỉ định hay thỏa thuận?” vẫn chưa được dự thảo luật làm rõ.
Chính khoảng trống pháp lý này dẫn tới các dự án thu hồi khoáng sản bị đình trệ, trong khi nhiều công trình trọng điểm lại thiếu đất, đá, cát san lấp. Đại biểu kiến nghị cần sớm bổ sung một “khung nguyên tắc pháp lý”, giao Chính phủ quy định chi tiết về trình tự, thủ tục và cơ chế lựa chọn đơn vị thực hiện. Chỉ khi minh bạch hóa toàn bộ quy trình, lượng vật liệu đang “nằm yên” dưới lòng hồ mới có thể được khai thác hợp pháp và an toàn.
Một điểm gây nhiều tranh luận là đề xuất cho phép khai thác khoáng sản nhóm 3-4 trong tình huống khẩn cấp mà không cần quy trình cấp phép như thông thường.
Đại biểu Phạm Văn Hòa (Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Đồng Tháp) cho rằng, quy định này có ưu điểm là linh hoạt trong ứng phó thiên tai, nhưng nếu không kiểm soát chặt thì nguy cơ bị lợi dụng rất lớn. Đại biểu cảnh báo: nếu lấy danh nghĩa “khẩn cấp” để khai thác sai quy hoạch hoặc vượt phạm vi cho phép, hậu quả có thể là sạt lở, suy thoái môi trường và ảnh hưởng nặng nề đến đời sống dân cư.
Theo đại biểu, hai điểm chưa rõ ràng nhất trong dự thảo là: cơ quan có thẩm quyền ban bố tình trạng khẩn cấp và cơ chế kiểm soát khối lượng khai thác. Trên thực tế, chỉ cần một sự nới lỏng nhỏ, doanh nghiệp có thể lợi dụng để khai thác vượt nhiều lần so với khối lượng được phép.
Từ những lo ngại đó, đại biểu đề nghị phải quy định cụ thể phạm vi, giới hạn khai thác, trách nhiệm giám sát của các sở, ngành và UBND cấp tỉnh. Đồng thời, cần tăng cường hậu kiểm, bởi nếu không giám sát chặt chẽ sau khi cấp phép thì việc khai thác bừa bãi sẽ rất khó kiểm soát.

Đại biểu Nguyễn Tâm Hùng (Đoàn đại biểu Quốc hội TP Hồ Chí Minh) phát biểu ý kiến trên hội trường. Ảnh: Quochoi.vn
Cùng quan điểm, đại biểu Nguyễn Tâm Hùng (Đoàn đại biểu Quốc hội TP Hồ Chí Minh) nhấn mạnh việc xác định thế nào là “tình huống khẩn cấp” phải thật rõ ràng. Bên cạnh đó, dự thảo luật cần bổ sung cơ chế hậu kiểm sản lượng, mục đích và khu vực khai thác để “không biến khẩn cấp thành kẽ hở pháp lý”.
Miễn bớt thủ tục cho nhóm 3-4: Nguy cơ tạo lỗ hổng lớn
Nội dung cho phép miễn phương án quản lý địa chất - khoáng sản và đơn giản hóa thủ tục môi trường đối với khai thác khoáng sản nhóm 3 và nhóm 4 cũng là vấn đề khiến nhiều đại biểu lo ngại.
Đại biểu Đàng Thị Mỹ Hương (Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Khánh Hòa) cho rằng, quy định này “nới quá rộng”. Khoáng sản nhóm 3 rất dễ bị khai thác vượt phạm vi, vượt khối lượng nếu thiếu giám sát. Việc bỏ qua bước đánh giá tác động môi trường khiến cơ quan quản lý thiếu căn cứ đánh giá toàn diện các rủi ro, đặc biệt là nguy cơ sạt lở, xói mòn, lũ lụt ở khu vực dự án.
Đại biểu đề nghị bổ sung nhiều yêu cầu bắt buộc, trong đó có: Báo cáo đánh giá tác động môi trường trong phương án khai thác; Đánh giá rủi ro thiên tai về thủy văn, địa chất, sạt lở; Cơ quan thẩm định phải xem xét đầy đủ các yếu tố này trước khi cấp phép.

Đại biểu Đàng Thị Mỹ Hương (Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Khánh Hòa). Ảnh: Quochoi.vn
Bên cạnh đó, để tăng trách nhiệm của tổ chức khai thác, đại biểu kiến nghị bổ sung quy định chủ đầu tư phải cam kết bồi thường thiệt hại nếu việc khai thác gây ảnh hưởng đến môi trường hoặc đời sống người dân. Đồng thời, cần quy định rõ trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan quản lý nếu để xảy ra thất thoát tài nguyên, cấp phép sai quy hoạch hoặc để kéo dài khai thác vượt mức.
Đưa ra góc nhìn khác, đại biểu Nguyễn Văn Thân (Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Hưng Yên) đề xuất nghiên cứu sử dụng cát biển thay thế cát sông. Theo đại biểu, nếu có cơ sở khoa học chứng minh cát biển phù hợp cho xây dựng, Việt Nam sẽ chủ động được nguồn vật liệu mà không phải khai thác quá mức lòng sông.
Đại biểu đề nghị Bộ Nông nghiệp và Môi trường phối hợp các viện nghiên cứu sớm đưa ra kết luận về khả năng sử dụng cát biển trong làm đường, bê tông; đồng thời làm rõ cơ chế quản lý vùng ngoài 6 hải lý - nơi hiện doanh nghiệp gặp nhiều vướng mắc về ranh giới khai thác.
Nếu khả thi, giải pháp này sẽ giảm áp lực lên hệ sinh thái sông, hạ giá thành vật liệu và giảm thiếu hụt vật liệu san lấp cho các dự án hạ tầng.

Đại biểu Nguyễn Văn Thân (Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Hưng Yên) đề xuất nghiên cứu sử dụng cát biển thay thế cát sông. Ảnh: Quochoi.vn
Đẩy nhanh khai thác vật liệu, quản lý chặt tài nguyên trong sửa đổi Luật
Phát biểu tại phiên thảo luận, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng cho biết, dù luật mới ban hành năm 2024 và có hiệu lực từ 1/7/2025, nhưng xuất phát từ những vướng mắc phát sinh trong thực tiễn, đặc biệt liên quan đến các chương trình, dự án trọng điểm quốc gia và quản lý đất hiếm, việc sửa đổi một số nội dung là cần thiết và cấp bách. Bộ trưởng khẳng định cơ quan soạn thảo sẽ tiếp thu nghiêm túc các ý kiến của đại biểu Quốc hội, trong đó có nhiều nội dung cần bổ sung ngay.
Về nhóm quy định nhằm đẩy nhanh đưa vật liệu nhóm 3, nhóm 4 vào sử dụng cho các công trình trọng điểm, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng cho biết, đây là trọng tâm sửa đổi, song phải đảm bảo nguyên tắc chặt chẽ để tránh bị lợi dụng. Nhiều đại biểu như Đàng Thị Mỹ Hương, Phạm Văn Hòa, Nguyễn Tân Hùng bày tỏ lo ngại việc mở rộng phạm vi hay thẩm quyền cấp phép có thể tạo kẽ hở trục lợi.
Làm rõ thêm, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng cho biết, việc “mở rộng xuống sâu” chỉ áp dụng cho các mỏ đang hoạt động và không yêu cầu bổ sung quy hoạch; còn các dự án mới vẫn phải tuân thủ đầy đủ quy hoạch. Việc cấp phép khai thác nhóm 3 không căn cứ phương án quản lý địa chất, khoáng sản trong quy hoạch tỉnh, nhưng khu vực mỏ vẫn phải phù hợp các yêu cầu về quốc phòng, môi trường, hạ tầng. Đồng thời, doanh nghiệp phải thực hiện thăm dò, đánh giá trữ lượng làm cơ sở cấp phép, đảm bảo an toàn kỹ thuật và kiểm kê trữ lượng khai thác nhằm hạn chế lãng phí. Bộ trưởng cho biết cơ sở dữ liệu quốc gia về khoáng sản sẽ được hoàn thành trong quý II/2026.

Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng phát biểu tại phiên thảo luận. Ảnh: Quochoi.vn
Đối với đất hiếm, nội dung được nhiều đại biểu như Điểu Huỳnh Sang, Nguyễn Thị Thu Hà, Trịnh Thị Tú Anh, Phạm Văn Hòa, Trịnh Xuân An quan tâm, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng nêu rõ, Việt Nam có trữ lượng lớn, phân bố tại 21 tỉnh, thành. Bộ đang hoàn thiện khoanh định các mỏ và xây dựng chiến lược quốc gia về đất hiếm trình cấp có thẩm quyền ban hành đầu năm 2026. Mục tiêu là khai thác, chế biến sâu, hình thành chuỗi giá trị khép kín, hạn chế xuất khẩu thô. Việc tách đất hiếm thành chương riêng trong dự thảo nhằm tạo cơ sở ban hành các văn bản dưới luật phục vụ quản lý chặt chẽ.
Về tiêu chí khoanh định khu vực không đấu giá quyền khai thác, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng cho biết, dự thảo đã thiết kế nguyên tắc và tiêu chí cụ thể để đảm bảo nguồn nguyên liệu ổn định cho các công trình cấp bách hoặc dự án chế biến sâu. Bộ trưởng nêu ví dụ việc đấu giá mỏ đá phục vụ nhà máy xi măng là không phù hợp. Việc khoanh định sẽ được phối hợp liên ngành, bảo đảm đánh giá đầy đủ yếu tố môi trường, sinh kế, nhu cầu thị trường và tránh lợi dụng chính sách.

Phó Chủ tịch Quốc hội Lê Minh Hoan phát biểu kết luận. Ảnh: Quochoi.vn
Phát biểu kết luận, Phó Chủ tịch Quốc hội Lê Minh Hoan ghi nhận các nội dung tiếp thu và đề nghị quy định về đóng cửa mỏ cần được hoàn thiện, đồng bộ chế tài; bảo đảm nghiêm ngặt yêu cầu an toàn môi trường, rủi ro thiên tai khi khai thác đất hiếm. Đồng thời đề nghị bổ sung quy định đánh giá tác động môi trường với khoáng sản nhóm 3, 4; tăng công khai, minh bạch để tránh thất thoát tài nguyên, đồng thời quan tâm nâng cao năng lực thú y và hệ thống giám sát theo các đề xuất của đại biểu Quốc hội.













