Không mở rộng diện miễn thuế giá trị gia tăng cho hoạt động bán tài sản bảo đảm
Bộ Tài chính giữ nguyên quan điểm không mở rộng diện miễn thuế giá trị gia tăng đối với hoạt động bán tài sản bảo đảm. Theo cơ quan này, việc bán tài sản bảo đảm vẫn được coi là hoạt động bán hàng hóa thông thường, cần tuân thủ nguyên tắc liên hoàn của thuế giá trị gia tăng…

Không mở rộng diện miễn thuế giá trị gia tăng cho hoạt động bán tài sản bảo đảm
Bộ Tài chính vừa có phản hồi liên quan đến kiến nghị của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam về chính sách thuế giá trị gia tăng đối với hoạt động bán tài sản bảo đảm.
Theo phản ánh do Bộ Tư pháp chuyển đến, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam đề nghị cơ quan có thẩm quyền xem xét sửa đổi, bổ sung Luật Thuế giá trị gia tăng để quy định rõ việc bán tài sản bảo đảm tiền vay của tổ chức tín dụng, cơ quan thi hành án hoặc bên vay vốn tự bán theo ủy quyền của bên cho vay nhằm trả nợ khoản vay có bảo đảm thuộc đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng.
"Hoạt động bán tài sản bảo đảm không phải là hoạt động kinh doanh thông thường mà là biện pháp thu hồi nợ. Bên cạnh đó nếu bị tính thuế giá trị gia tăng sẽ làm tăng chi phí xử lý nợ, giảm tính hấp dẫn của tài sản khi bán và kéo dài quá trình thu hồi nợ".
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam
Tuy nhiên, trong văn bản trả lời, Bộ Tài chính cho biết bán tài sản bảo đảm là hoạt động bán hàng hóa thông thường, do đó để bảo đảm tính liên hoàn của thuế giá trị gia tăng, hoạt động này thuộc đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng.
Trong trường hợp này, toàn bộ thuế giá trị gia tăng đầu vào liên quan sẽ được khấu trừ theo quy định, Bộ Tài chính nhấn mạnh.
Đồng thời, Bộ cũng cho biết nội dung này đã được xem xét, giải trình trong quá trình xây dựng Luật Thuế giá trị gia tăng số 48/2024/QH15.
Cụ thể, khoản 9 Điều 5 Luật Thuế giá trị gia tăng số 48/2024/QH15 quy định đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng, trong đó điểm h nêu: “Bán tài sản bảo đảm của khoản nợ của tổ chức mà Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ do Chính phủ thành lập, có chức năng mua bán nợ để xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng Việt Nam”.
Theo đó, chỉ tài sản bảo đảm thuộc phạm vi xử lý của tổ chức mua bán nợ do Nhà nước thành lập mới được miễn thuế giá trị gia tăng.
Các trường hợp còn lại, bao gồm cả hoạt động bán tài sản bảo đảm của tổ chức tín dụng hoặc cơ quan thi hành án, vẫn thuộc đối tượng chịu thuế, nhằm bảo đảm nguyên tắc thống nhất và cơ chế khấu trừ đầu vào của thuế giá trị gia tăng.
Ngoài ra, Bộ Tài chính cũng dẫn chiếu thêm, theo Khoản 1 Điều 4 và khoản 25 Điều 5 của Luật Thuế giá trị gia tăng số 48/2024/QH15, trong trường hợp tài sản bảo đảm của tổ chức hoặc cá nhân không kinh doanh, không thuộc đối tượng nộp thuế giá trị gia tăng thì việc bán ra cũng không phải chịu thuế giá trị gia tăng.
Như vậy, Bộ Tài chính vẫn giữ nguyên quan điểm rằng hoạt động bán tài sản bảo đảm của tổ chức tín dụng và cơ quan thi hành án vẫn thuộc đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng, nhằm bảo đảm nguyên tắc thống nhất trong hệ thống thuế và cơ chế khấu trừ đầu vào của thuế giá trị gia tăng.













