Không phát hiện giấy tờ giả, văn phòng công chứng bị kiện đòi bồi thường

Văn phòng công chứng công chứng hợp đồng ủy quyền và chuyển nhượng quyền sử dụng đất nhưng thành phần hồ sơ có giấy tờ giả, dẫn đến sau đó bị kiện.

Dự kiến chiều 26-8 TAND TP.HCM đưa ra xét xử phúc thẩm vụ án tranh chấp yêu cầu văn bản công chứng vô hiệu giữa nguyên đơn là ông B với bị đơn là văn phòng công chứng (VPCC) Nguyễn Lê Nghĩa (trước đó là VPCC quận 10). Tuy nhiên, phiên tòa hoãn do VPCC Nguyễn Lê Nghĩa xin hoãn.

Đã kết hôn nhưng hồ sơ có giấy xác nhận độc thân

Theo ông B, ông và bà M đăng ký kết hôn ngày 25-2-1986 tại UBND quận 8, TP.HCM. Hiện tại, ông B và bà M vẫn trong thời kỳ hôn nhân.

Lô đất tại huyện Bình Chánh, TP.HCM đứng tên bà M là tài sản chung nhưng bà M đã tự ý ủy quyền cho bà H thực hiện các quyền liên quan đến lô đất (giấy độc thân của bà M không biết do ai làm để thực hiện ký hợp đồng ủy quyền). Từ đó, bà H ủy quyền lại cho ông L. Ngày 20-7-2016, ông L chuyển nhượng cho bà G. Hiện tại bà G đang quản lý sử dụng lô đất, trên đất có căn nhà do vợ chồng ông B xây dựng trước đó.

 Ông B tại tòa. Ảnh: YC

Ông B tại tòa. Ảnh: YC

Cho rằng các bên tham gia các giao dịch trên là trái pháp luật nên ông B khởi kiện VPCC Nguyễn Lê Nghĩa, đề nghị tuyên bố vô hiệu đối với hai hợp đồng ủy quyền và vô hiệu đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bên chuyển nhượng là bà M (do ông L làm đại diện); bên nhận chuyển nhượng là bà G. Yêu cầu bà G và những người đang ở trong căn nhà xây dựng trên đất giao lại đất và nhà cho vợ chồng ông B và giao lại bản chính giấy chứng nhận.

Đồng thời, ông B yêu cầu VPCC bồi thường tiền thuê nhà ở từ tháng 4-2012 đến tháng 10-2024 với số tiền là 404 triệu đồng.

Trong khi đó, VPCC cho rằng việc chứng nhận hợp đồng ủy quyền là đúng quy định. Nay được biết bà M và ông B có đăng ký kết hôn do ông B cung cấp, đã có một bên thực hiện việc giả mạo giấy tờ.

Vì vậy, VPCC đề nghị tòa án kiểm tra, xác minh loại giấy tờ nào đúng, loại giấy tờ nào là giả mạo. Trong trường hợp giấy đăng ký kết hôn của bà M và ông B là đúng thì VPCC yêu cầu tuyên bố hợp đồng ủy quyền nêu trên là vô hiệu.

Trường hợp tuyên các văn bản vô hiệu, VPCC không có yêu cầu gì, các bên tham gia giao dịch thế nào văn phòng không biết và họ tự giải quyết với nhau.

Trong khi đó, bà M (tham gia với tư cách người liên quan) cho rằng bà có vay dịch vụ 70 triệu đồng nên ký hợp đồng ủy quyền để làm tin. Bà nhớ VPCC có yêu cầu bà đưa chứng minh nhân dân, hộ khẩu và giấy độc thân, bà M nói không có giấy độc thân, rồi họ tự làm sao đó bà M không biết. Gần một năm sau, khi phát hiện căn nhà người khác vào ở nên ông B làm đơn khởi kiện. Bà M đề nghị chấp nhận yêu cầu của ông B.

Người mua lô đất là bà G (tham gia với tư cách người liên quan) cho rằng những người bà M ủy quyền giao dịch lô đất thế nào bà không biết, bà chỉ biết bà M là người chuyển nhượng lô đất cho bà G có công chứng đúng quy định.

Việc mua bán ký các hợp đồng được công chứng đúng quy định, bà G không đồng ý tuyên vô hiệu. Trường hợp tòa án tuyên vô hiệu, bà G yêu cầu vợ chồng ông B và hai VPCC liên đới bồi thường số tiền hơn 970 triệu đồng theo chứng thư thẩm định giá.

Các bên đều có lỗi

Xử sơ thẩm tháng 6-2025, TAND quận 10 (nay là TAND Khu vực 4) cho rằng lô đất do vợ chồng ông B bà M tạo lập trong thời kỳ hôn nhân, bà M và ông B đều thừa nhận là tài sản chung.

VPCC cung cấp hồ sơ hợp đồng ủy quyền có lưu bản sao giấy xác nhận tình trạng hôn nhân ngày 3-12-2015 với nội dung xác nhận bà M chưa đăng ký kết hôn với ai.

Tuy nhiên, theo công văn ngày 6-8-2018 của UBND phường 7, quận 8 cho biết không cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân và không có hồ sơ cấp giấy này. Công văn ngày 7-8-2018 của phòng Tư pháp - UBND quận 8 cho biết có giấy đăng ký kết hôn ngày 25-2-1986 của UBND quận 8 cấp cho vợ chồng ông B bà M. Công văn ngày 14-9-2022 của Cơ quan cảnh sát Điều tra - Công an Quận 10 thông báo kết quả giải quyết đơn của bà G cho biết do không thu thập được bản chính giấy xác nhận tình trạng hôn nhân nên không có căn cứ để giám định tài liệu nên chưa có dấu hiệu tội phạm làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức để lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Như vậy, thời điểm bà M ủy quyền cho bà H đã sử dụng tài liệu giả để công chứng. Khi ông B là đồng sở hữu biết sự việc đã không đồng ý giao dịch này. Việc bà M ủy quyền cho bà H đã vi phạm điều cấm của pháp luật nên vô hiệu theo Điều 117, 122, 123 BLDS, dẫn đến hợp đồng ủy quyền này vô hiệu.

Từ đó, hợp đồng ủy quyền lại và hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cũng vô hiệu.

Theo HĐXX sơ thẩm, về lỗi các bên dẫn đến việc ký hợp đồng chuyển nhượng vô hiệu, khi ký hợp đồng ủy quyền bà M biết lô đất là tài sản chung của vợ chồng nhưng vẫn ký ủy quyền cho bà H mà không có sự đồng ý của ông B.

Về phía công chứng viên của VPCC vì không làm hết trách nhiệm nên đã bỏ qua việc tìm hiểu thêm thông tin về giấy độc thân của người ủy quyền khi có dấu hiệu nghi ngờ, bỏ qua thời hạn sử dụng đất. Xét về mức độ lỗi thì ngang nhau, do đó bà M và VPCC mỗi bên phải chịu 50% phần chênh lệch giá giá trị nhà đất giữa thời điểm hiện tại và thời điểm giao dịch (hơn 510 triệu đồng).

Từ đó, HĐXX sơ thẩm tuyên hai hợp đồng ủy quyền và hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu. Bà G có nghĩa vụ giao trả nhà đất cho ông B, bà M.

Bà M có nghĩa vụ trả cho bà G số tiền là hơn 715 triệu đồng (tiền chuyển nhượng đất 460 triệu đồng và tiền bồi thường 255 triệu đồng). VPCC Nguyễn Lê Nghĩa có nghĩa vụ trả cho bà G số tiền hơn 255 triệu đồng.

Văn phòng công chứng và bà M kháng cáo

Sau khi xử sơ thẩm, VPCC kháng cáo toàn bộ bản án, đề nghị sửa theo hướng bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông B.

Bà M cũng kháng cáo đề nghị sửa bản án sơ thẩm theo hướng bà không phải trả cho bà G 460 triệu đồng tiền chuyển nhượng đất và bà không có lỗi làm cho hợp đồng vô hiệu nên không có nghĩa vụ bồi thường cho bà G số tiền 225 triệu đồng mà VPCC phải bồi thường toàn bộ thiệt hại cho bà G.

YẾN CHÂU

Nguồn PLO: https://plo.vn/video/khong-phat-hien-giay-to-gia-van-phong-cong-chung-bi-kien-doi-boi-thuong-post867595.html