Kiểm định chất lượng bổ sung tiêu chí Đạt có điều kiện: CSGDĐH đánh giá phù hợp xu thế

Theo PGS.TS Nguyễn Xuân Hoàn, để thuận lợi hơn đối với các CSGDĐH, Bộ Giáo dục và Đào tạo cần quy định rõ quy trình hậu kiểm và có cơ chế cảnh báo sớm.

Dự thảo Thông tư thay thế Thông tư số 12/2017/TT-BGDĐT về kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục đại học (Thông tư 12) do Bộ Giáo dục và Đào tạo công bố đã điều chỉnh cả về bộ tiêu chuẩn và phương thức đánh giá. Trong đó, một số điểm mới như bổ sung tiêu chí đánh giá “Đạt có điều kiện”, giảm số lượng thành viên Hội đồng tự đánh giá, hay bổ sung các trường hợp bị thu hồi giấy chứng nhận kiểm định chất lượng đang nhận được sự quan tâm lớn của cơ sở giáo dục đại học.

Tiêu chí đánh giá “Đạt có điều kiện” là phù hợp, linh hoạt cho các cơ sở giáo dục đại học

Về cách đánh giá, Dự thảo Thông tư đề xuất 2 phương án: đánh giá có hoặc không có tiêu chí điều kiện. Đồng thời, thay đổi cách đánh giá các tiêu chuẩn, tiêu chí từ thang đánh giá 7 mức (tương ứng 7 điểm) sang 2 mức Đạt và Không đạt. Kết quả đánh giá cơ sở giáo dục đại học cũng được bổ sung thêm cơ chế “Đạt có điều kiện”, bên cạnh 2 mức “Đạt” và “Không đạt” như cũ.

Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Xuân Hoàn - Hiệu trưởng Trường Đại học Công thương Thành phố Hồ Chí Minh cho rằng, Dự thảo Thông tư đã khắc phục các bất cập và mở ra cơ chế thúc đẩy nâng cao chất lượng, tăng cường trách nhiệm giải trình, hội nhập quốc tế và phát triển bền vững cho hệ thống giáo dục đại học Việt Nam trong giai đoạn mới.

Về cách đánh giá của Dự thảo Thông tư, theo thầy Hoàn, phương án đánh giá có tiêu chí điều kiện là phương án tối ưu hơn. Bởi một số tiêu chí trong dự thảo mang tính chất điều kiện tiên quyết như: chuẩn đầu ra, quản lý tài chính, đội ngũ giảng viên, hay hoạt động đào tạo đều những nền tảng cốt lõi, nếu không đạt thì khó có thể coi cơ sở giáo dục đáp ứng chuẩn chất lượng.

Bên cạnh đó, việc chuyển từ thang 7 mức sang 2 mức (Đạt/Không đạt) và bổ sung cơ chế “Đạt có điều kiện” sẽ giúp cách đánh giá trở nên rõ ràng, minh bạch hơn. Song, vẫn tạo nên cơ chế linh hoạt để các trường có thời gian khắc phục hạn chế. Cách tiếp cận này giúp các cơ sở giáo dục không bị áp lực phải “hoàn hảo ngay lập tức”, mà có lộ trình 12–24 tháng để cải tiến, qua đó khuyến khích văn hóa cải tiến liên tục, phát triển văn hóa chất lượng trong nhà trường.

Đặc biệt, việc đổi mới cách đánh giá theo hướng này sẽ mang lại nhiều lợi ích thiết thực cho các cơ sở giáo dục đại học.

Thứ nhất, giúp các cơ sở giáo dục chủ động nhận diện điểm hạn chế và cải tiến theo lộ trình thay vì bị đánh giá “không đạt” ngay.

Thứ hai, tiệm cận chuẩn mực quốc tế, khi nhiều hệ thống kiểm định uy tín cũng áp dụng cơ chế “conditional accreditation”.

Thứ ba, giảm tính hình thức, tăng tính thực chất. Thay vì chạy theo điểm số, các trường đại học sẽ tập trung nhiều hơn vào minh chứng cải tiến và hiệu quả hoạt động. Đồng thời, cách đánh giá này cũng bảo đảm các cơ sở giáo dục chú trọng tới nền tảng hệ thống và trách nhiệm giải trình để tương thích với quy định tại Thông tư số 04/2025/TT-BGDĐT về kiểm định chương trình đào tạo các trình độ của giáo dục đại học.

 Nhà giáo ưu tú, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Xuân Hoàn - Hiệu trưởng Trường Đại học Công thương Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh: website nhà trường.

Nhà giáo ưu tú, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Xuân Hoàn - Hiệu trưởng Trường Đại học Công thương Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh: website nhà trường.

Cùng chung quan điểm, Tiến sĩ Phan Đức Tuấn - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm, Đại học Đà Nẵng cho rằng, việc chọn phương án đánh giá có tiêu chí điều kiện, kết hợp với thang đánh giá 2 mức (Đạt/Không đạt) và bổ sung mức “Đạt có điều kiện” là phương án hợp lý hơn.

Trên thực tế, thang 7 mức trước đây (từ 1 đến 7 điểm) có ưu điểm là chi tiết, phản ánh mức độ tiến bộ của cơ sở. Tuy nhiên, khi áp dụng vào thực tế, nhiều trường gặp khó khăn trong việc phân biệt các mức điểm, dẫn tới thiếu tính khách quan, còn phụ thuộc vào cảm tính của chuyên gia đánh giá.

Do đó, việc đánh giá 2 mức (Đạt/Không đạt) tạo nên sự rõ ràng, minh bạch, dễ áp dụng và so sánh giữa các trường. Đây cũng là xu hướng quốc tế (chẳng hạn AUN-QA, HCERES của Pháp thường thiên về chuẩn mực đạt/chưa đạt thay vì thang điểm).

Việc bổ sung “Đạt có điều kiện” cũng giúp tạo cơ chế khuyến khích cải tiến cho các trường đại học. Các trường chưa đạt đầy đủ, nhưng đã đạt các tiêu chí cơ bản, có kế hoạch khắc phục và cam kết rõ ràng thì không bị “loại bỏ” ngay, mà có lộ trình để hoàn thiện. Đây là cách tiếp cận mang tính hỗ trợ và phát triển, thay vì chỉ đơn thuần kiểm soát.

 Tiến sĩ Phan Đức Tuấn, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm - Đại học Đà Nẵng. Ảnh: NTCC.

Tiến sĩ Phan Đức Tuấn, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm - Đại học Đà Nẵng. Ảnh: NTCC.

Bộ cần hướng dẫn rõ về thành phần bắt buộc trong Hội đồng tự đánh giá

Bên cạnh cách đánh giá, hoạt động tự đánh giá của cơ sở giáo dục đại học cũng là điểm đáng chú ý trong Dự thảo Thông tư mới khi đề xuất Hội đồng tự đánh giá có số lượng thành viên là số lẻ và có ít nhất 9 thành viên (tức giảm 2 thành viên so với quy định hiện hành), do Hiệu trưởng hoặc Giám đốc cơ sở giáo dục đại học quyết định thành lập.

Theo thầy Nguyễn Xuân Hoàn, việc quy định số lượng thành viên Hội đồng tự đánh giá tối thiểu 9 thành viên thay vì 11 thành viên như Thông tư 12/2017/TT-BGDĐT trước đây là phù hợp và hợp lý.

Trọng tâm của kiểm định chất lượng là hiệu quả hoạt động, không phải số lượng thành viên. Một hội đồng đông, nhưng hoạt động mang tính hình thức sẽ kém hiệu quả hơn một hội đồng gọn nhẹ, tập trung và làm việc thực chất.

Quy định mới cũng tạo ra sự linh hoạt hơn cho các cơ sở giáo dục, đặc biệt là các trường có quy mô nhỏ. Khi việc thành lập và vận hành hội đồng trở nên thuận lợi, sẽ giảm gánh nặng hành chính nhưng vẫn bảo đảm được tính đại diện của các đối tượng liên quan khác nhau trong nhà trường từ giảng viên, sinh viên, nhân viên từ khoa chuyên môn, phòng ban đến đoàn thể.

 Sinh viên Trường Đại học Công thương Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh website nhà trường.

Sinh viên Trường Đại học Công thương Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh website nhà trường.

Còn theo thầy Phan Đức Tuấn, điều này không chỉ phù hợp với bối cảnh giáo dục đại học hiện tại, mà còn tăng tính khả thi và linh hoạt.

Số lượng 9 thành viên đủ để Hội đồng tự đánh giá đảm bảo sự đa dạng ý kiến, phản biện và giám sát chéo. Quy mô gọn hơn sẽ giúp Hội đồng vận hành hiệu quả hơn, tránh tình trạng “quá đông nhưng chưa mạnh” dẫn đến khó thống nhất và kéo dài thời gian.

Mặt khác, điều này cũng tiệm cận với thông lệ quốc tế. Tại một số trường đại học trên thế giới, các hội đồng hoặc ủy ban tự đánh giá thường dao động từ 7 đến 11 thành viên, tùy theo quy mô và đặc thù cơ sở giáo dục. Do đó, số lượng 9 thành viên trong hội đồng tự đánh giá là hợp lý, vừa đảm bảo tính đại diện, vừa phù hợp với thực tế Việt Nam.

Song, để tăng tính khả thi, Bộ Giáo dục và Đào tạo cần hướng dẫn rõ về thành phần bắt buộc trong Hội đồng tự đánh giá (ví dụ: có đại diện lãnh đạo, giảng viên, cán bộ hỗ trợ, tổ chức đoàn thể, và người học) để đảm bảo khách quan, toàn diện.

Nên có quy trình cảnh báo trước khi thu hồi giấy chứng nhận kiểm định chất lượng

Dự thảo nêu rõ việc bổ sung các trường hợp bị thu hồi giấy chứng nhận kiểm định chất lượng, đồng thời quy định rõ trách nhiệm của cơ sở giáo dục, tổ chức kiểm định và cơ quan quản lý trong việc giám sát sau đánh giá.

Cụ thể, giấy chứng nhận kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục đại học còn thời hạn giá trị bị thu hồi nếu việc công nhận kết quả đánh giá và cấp giấy chứng nhận kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục đại học khi cơ sở giáo dục đại học không đáp ứng đủ các điều kiện theo Thông tư.

Đồng thời, cơ sở giáo dục đại học trong giai đoạn được đánh giá không đáp ứng yêu cầu duy trì điều kiện bảo đảm chất lượng theo kết luận của cơ quan có thẩm quyền.

Đánh giá về nội dung này, theo thầy Phan Đức Tuấn, đây là một điểm mới quan trọng, thể hiện tính nghiêm minh, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong công tác kiểm định chất lượng giáo dục đại học. Từ đó, giúp nâng cao tính thực chất của hoạt động kiểm định, tránh tình trạng cơ sở giáo dục tập trung vào việc đạt chuẩn ở thời điểm đánh giá mà chưa quan tâm đến việc duy trì và cải tiến chất lượng liên tục trong việc thực hiện các nhiệm vụ đào tạo, nghiên cứu khoa học và phục vụ cộng đồng.

Quy định cơ chế thu hồi giấy chứng nhận kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục còn thời hạn là cơ chế ràng buộc, bắt buộc các cơ sở giáo dục đại học có trách nhiệm duy trì các chuẩn mực chất lượng một cách liên tục.

Cụ thể, việc bổ sung cơ chế thu hồi sẽ khắc phục tình trạng chỉ đạt ở thời điểm đánh giá nhưng sau đó cơ sở giáo dục không duy trì, thậm chí xuống cấp chất lượng. Điều này góp phần tạo áp lực tích cực buộc các trường đại học phải duy trì liên tục hệ thống bảo đảm chất lượng, thay vì chạy theo thành tích ngắn hạn.

Mặt khác, quy định rõ trách nhiệm của cơ sở giáo dục, tổ chức kiểm định và cơ quan quản lý trong giám sát sau đánh giá là cần thiết để tránh chồng chéo, bỏ trống trách nhiệm. Hậu kiểm là công đoạn không thể thiếu để tạo văn hóa chất lượng thực chất.

Tuy nhiên, để thuận lợi cho các cơ sở giáo dục đại học, Bộ Giáo dục và Đào tạo nên quy định rõ các chỉ báo hoặc ngưỡng tối thiểu nếu cơ sở không duy trì thì sẽ bị xem xét thu hồi chứng nhận (ví dụ: tỷ lệ giảng viên/sinh viên, năng lực tài chính, điều kiện đảm bảo chất lượng tối thiểu về cơ sở vật chất, thư viện, hệ thống QA…).

Cùng với đó, cần thiết lập quy trình cảnh báo sớm trước khi thu hồi, chẳng hạn như yêu cầu trường báo cáo khắc phục trong 6–12 tháng, sau đó mới tiến hành thu hồi nếu không cải thiện.

Song song với đó, nên có cơ chế công khai minh bạch về các trường hợp bị thu hồi để răn đe và nâng cao tính trách nhiệm giải trình.

Đặc biệt, phải tăng cường vai trò của hệ thống dữ liệu quốc gia về bảo đảm chất lượng để cơ quan quản lý và các bên liên quan có thể giám sát thường xuyên.

Góp ý thêm với dự thảo, thầy Phan Đức Tuấn cho rằng, một số tiêu chí hiện nay còn mang tính liệt kê, thiên về “có” hay “không”, trong khi quốc tế thường chú trọng kết quả, minh chứng đầu ra và tác động.

Do đó, nên rà soát để giảm các tiêu chí mang tính hình thức, thay bằng tiêu chí gắn với kết quả thực tế và tác động.

Đồng thời, Dự thảo nên quy định công khai báo cáo tóm tắt kiểm định để xã hội, người học, doanh nghiệp tiếp cận thông tin. Từ đó, tăng tính minh bạch và thúc đẩy trường đại học thực hiện cải tiến nghiêm túc.

Mặc dù Dự thảo Thông tư mới đã có nhiều điểm đổi mới tích cực. Song, để đạt hiệu quả cao nhất, cần điều chỉnh theo hướng đơn giản - thực chất - tiệm cận quốc tế - thúc đẩy cải tiến liên tục - gắn với trách nhiệm giải trình.

 Ảnh minh họa: Trường Đại học Sư phạm, Đại học Đà Nẵng.

Ảnh minh họa: Trường Đại học Sư phạm, Đại học Đà Nẵng.

Còn theo thầy Nguyễn Xuân Hoàn, quy định các trường hợp bị thu hồi giấy chứng nhận kiểm định chất lượng giúp tránh được tình trạng cơ sở giáo dục được công nhận nhưng sau đó buông lỏng quản lý, không duy trì các điều kiện tối thiểu về chất lượng. Đồng thời, ràng buộc trách nhiệm của các bên để cơ sở giáo dục có nghĩa vụ duy trì chất lượng và tổ chức kiểm định phải theo dõi, giám sát. Từ đó, cơ quan quản lý nhà nước có căn cứ pháp lý để xử lý và giám sát thường xuyên.

Đây cũng là động lực thúc đẩy cải tiến liên tục, để các trường đại học coi kiểm định là một quá trình thường xuyên, thay vì chỉ “đạt chứng nhận một lần rồi để đó”.

Cũng theo thầy Hoàn, Bộ Giáo dục và Đào tạo cần quy định rõ quy trình hậu kiểm và cơ chế cảnh báo sớm. Chẳng hạn như trong vòng 1-2 năm nếu phát hiện dấu hiệu không duy trì chuẩn, Bộ hoặc tổ chức kiểm định có quyền yêu cầu cơ sở giáo dục phải giải trình ngay.

Song song với đó, để tăng tính minh bạch, cần công khai danh sách cơ sở giáo dục được công nhận ở mức “Đạt có điều kiện” hoặc đang trong diện hậu kiểm, để xã hội và người học có thể giám sát.

Đặc biệt, nên nghiên cứu xây dựng cổng dữ liệu kiểm định trực tuyến, báo cáo định kỳ qua phần mềm để giám sát hiệu quả, giảm bớt thủ tục hành chính.

Mạnh Dũng

Nguồn Giáo Dục VN: https://giaoduc.net.vn/kiem-dinh-chat-luong-bo-sung-tieu-chi-dat-co-dieu-kien-csgddh-danh-gia-phu-hop-xu-the-post254466.gd