Kiểm toán đưa ra ý kiến ngoại trừ, lý giải nguyên nhân EVN lỗ hơn 20.000 tỷ đồng
Lý do khiến công ty mẹ EVN ghi nhận khoản lỗ hơn 26.500 tỷ đồng do tập đoàn kinh doanh dưới giá vốn. Cụ thể, doanh thu bán điện năm 2022 đạt 372.900 tỷ đồng, song giá vốn bán điện lại lên tới 402.600 tỷ đồng. Kiểm toán cũng đưa ra ý kiến ngoại trừ trong báo cáo tài chính của EVN.
Theo Báo cáo tài chính (BCTC) kiểm toán vừa công bố của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) do Deloitte thực hiện, năm 2022, doanh nghiệp ghi nhận khoản lỗ hợp nhất 20.747 tỷ đồng, lỗ tại công ty mẹ là hơn 26.500 tỷ đồng trong khi năm 2021 vẫn lãi hơn 14.700 tỷ đồng.
Báo cáo nêu: EVN ghi nhận doanh thu năm 2022 tăng 9%, lên hơn 463.000 tỷ đồng, chiếm phần lớn là doanh thu từ mua bán điện (chiếm 98% cơ cấu), tương đương hơn 463.000 tỷ đồng.
Lý do khiến công ty mẹ EVN ghi nhận khoản lỗ hơn 26.500 tỷ đồng do tập đoàn kinh doanh dưới giá vốn. Cụ thể, doanh thu bán điện năm 2022 đạt 372.900 tỷ đồng, song giá vốn bán điện lại lên tới 402.600 tỷ đồng. Giá vốn hàng bán tăng mạnh hơn doanh thu khiến lợi nhuận gộp của tập đoàn cũng lao dốc 72% so với năm trước, chỉ còn 10.600 tỷ đồng.
Doanh thu hoạt động tài chính cũng giảm hơn 50%, xuống gần 7.400 tỷ đồng, chủ yếu do lãi chênh lệch tỷ giá giảm 7.000 tỷ đồng, từ 10.446 tỷ đồng còn 3.442 tỷ đồng. Mặt khác, chi phí tài chính lại tăng 24% lên 18.192 tỷ đồng chủ yếu do chênh lệch tỷ giá.
Sau khi khấu trừ các chi phí và thuế, EVN ghi nhận khoản lỗ sau thuế hơn 20.700 tỷ đồng, và lỗ ròng tới gần 22.300 tỷ đồng, trong khi cùng kỳ vẫn lãi lần lượt 14.700 tỷ và 13.600 tỷ đồng.
Tính tới cuối năm 2022, tổng tài sản của EVN đạt gần 666.200 tỷ đồng, giảm gần 40.000 tỷ đồng so với đầu năm. Trong đó, EVN đang nắm giữ 84 tỷ đồng tiền mặt, 63.000 tỷ đồng tiền gửi có kỳ hạn, giảm lần lượt 13% và 32% so với đầu năm 2022.
Các khoản nợ ngắn hạn và dài hạn của EVN lần lượt là 47.600 tỷ đồng, và 276.700 tỷ đồng.
Đáng chú ý, đơn vị kiểm toán đã đưa ra ý kiến ngoại trừ trong BCTC của EVN. Nguyên nhân do BCTC hợp nhất của CTCP Tư vấn Xây dựng điện 1 (PECC1 - công ty con của tập đoàn) đã được hợp nhất vào báo cáo của EVN, trong khi tổ chức kiểm toán không thể thu thập được các tài liệu thích hợp về số liệu của PECC1, cũng như không thực hiện được các thủ tục thay thế đối với BCTC PECC1 cho năm 2021. Do vậy, Deloitte phải đưa ra ý kiến ngoại trừ với báo cáo năm 2021 của EVN.
Tương tự, Deloitte cũng không thể thu thập đủ tài liệu thích hợp về số liệu của PECC1 cho năm 2022, và không xác định được ảnh hưởng từ vấn đề ngoại trừ năm 2021 đến báo cáo năm 2022, do đó chưa thể xác định có cần thiết phải điều chỉnh các số liệu liên quan hay không.
Bên cạnh đó, Deloitte cũng nhấn mạnh 3 vấn đề của tập đoàn này. Cụ thể là việc các cơ quan có thẩm quyền chưa phê duyệt chính thức báo cáo quyết toán cổ phần hóa tại 2 công ty con của EVN tại thời điểm lập báo cáo.
Ngoài ra, chính sách kế toán của EVN có liên quan đến hạch toán kế toán với các khoản chênh lệch tỷ giá. Chênh lệch tỷ giá phát sinh trong năm và do đánh giá lại các số dư khoản mục tiền gốc ngoại tệ được hạch toán vào báo cáo kết quả kinh doanh hợp nhất.
EVN còn một số khoản công nợ tiềm tàng, như dự án Điện hạt nhân Ninh Thuận dừng thực hiện đầu tư vào tháng 11/2016, đang chờ phương án xử lý tài chính; tiền thuê đất của hệ thống đường dây truyền tải điện (do chưa xác định được giá trị tin cậy của toàn bộ chi phí); chi phí vận chuyển, thu gom khí mỏ Thiên Ưng, đường ống dẫn khí Phú Mỹ, và chi phí vận chuyển khí của nhà máy điện Cà Mau 1 và 2.