Kinh nghiệm xây dựng Nghị quyết về giáo dục đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng tại cơ sở
Công tác xây dựng nghị quyết luôn là khâu trọng tâm, là một nội dung quan trọng trong hoạt động lãnh đạo của chi bộ, đảng bộ các cấp. Tại Đảng bộ TP. Cần Thơ để triển khai Nghị quyết của Đảng về 'xây dựng Đảng về đạo đức' thì việc xây dựng chủ trương, nghị quyết, quy chế, quy định nhằm giáo dục, rèn luyên đạo đức cách mạng cho tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên là vấn đề có tính nguyên tắc, mang ý nghĩa đặc biệt quan trọng, góp phần xây dựng Đảng bộ TP. Cần Thơ vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức.
Mối quan hệ giữa xây dựng đạo đức của tổ chức đảng và xây dựng đạo đức của đảng viên
Đạo đức thuộc phạm trù ý thức xã hội và là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng. Khi định hình xã hội loài người từ buổi sơ khai đã ra đời đạo đức, đó là những chuẩn mực cần thiết điều chỉnh hành vi của con người, sự ứng xử của con người với nhau và với cộng đồng. V.I. Lê-nin đặc biệt nhấn mạnh vai trò của đạo đức cộng sản, coi đạo đức là một bộ phận trong cuộc đấu tranh nhằm cảo tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Người đòi hỏi những người cộng sản, nhất là thế hệ thanh niên phải tu dưỡng, rèn luyện về đạo đức. “Các đồng chí phải tự giáo dục mình thành những người cộng sản”, “Đạo đức của chúng ta hoàn toàn phục tùng lợi ích đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản. Đạo đức của chúng ta là từ những lợi ích của cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản mà ra”[1]. Đạo đức đó là những gì góp phần phá hủy xã hội cũ và sáng tạo ra xã hội mới.
Khi chuẩn bị những điều kiện cần thiết để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, trong tác phẩm Đường Cách mệnh (1927), lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã đặt lên hàng đầu Tư cách một người cách mệnh với 23 điểm căn bản. Với thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Đảng Cộng sản cầm quyền ở Việt Nam, yêu cầu và nội dung xây dựng Đảng đặt ra nhiều vấn đề lớn và mới mẻ trong đó có rèn luyện đạo đức cách mạng. Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc (10-1947), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết trong Chương III về Tư cách và đạo đức cách mạng, nhấn mạnh 12 điều về tư cách của Đảng chân chính cách mạng.
Trong quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đạo đức là một hình thái ý thức xã hội bao gồm hệ thống các quy tắc, chuẩn mực nhằm điều chỉnh nhận thức, hành vi và đánh giá cách ứng xử của cá nhân và của tập thể, tổ chức trong quan hệ với nhau, quan hệ với xã hội và quan hệ với giới tự nhiên để bảo vệ lợi ích của cá nhân và của cộng đồng, đảm bảo sự phát triển hài hòa, bền vững.
Đạo đức dưới khía cạnh là hành vi đạo đức, là hành động của cá nhân thể hiện quan niệm của cá nhân về nghĩa vụ đối với xã hội và đối với người khác, thể hiện lương tâm hoặc bổn phận của cá nhân trong những hoàn cảnh khác nhau. Tuy nhiên, Hồ Chí Minh không chỉ nói đến đạo đức cá nhân, mà Người còn nói đạo đức của cộng đồng, đạo đức của tổ chức. Người nhắc đến đạo đức của dân tộc: “Dân tộc ta là một dân tộc giàu lòng đồng tình và bác ái” hay “Một dân tộc đã tự cường, tự lập, dân chủ cộng hòa thì không làm những việc nhỏ nhen, báo thù báo oán” và “Một dân tộc biết cần, kiệm, biết liêm, là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh tiến bộ”. Nói về đạo đức của Đảng Cộng sản Việt Nam, người nói đến “tư cách của đảng chân chính cách mạng” và chỉ ra những tiêu chỉ cụ thể để đánh giá tính chân chính của tổ chức đảng. Đây là nét sáng tạo độc đáo của Hồ Chí Minh trong quan niệm về đạo đức.
Như vậy, về mặt nhận thức, Hồ Chí Minh không chỉ quan niệm xây dựng Đảng về đạo đức là xây dựng các chuẩn mực đạo đức của cán bộ, đảng viên, Người còn quan tâm đến các chuẩn mực đạo đức của tổ chức đảng.
Hay nói cách khác, xây dựng Đảng về đạo đức là xây dựng các quy tắc, chuẩn mực đạo đức của người đảng viên cộng sản và của tổ chức đảng chân chính cách mạng trên quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tinh hoa đạo đức nhân loại. Đạo đức cách mạng là một nền đạo đức mang tính nhân văn và tiến bộ. Do đó, nếu xây dựng Đảng mà chỉ quan tâm đến đạo đức của cá nhân cán bộ, đảng viên, bỏ qua đạo đức của tổ chức đảng sẽ là chưa toàn diện.
Hồ Chí Minh đã chỉ ra mối quan hệ giữa đạo đức của tổ chức đảng và đảng viên. Người nêu câu hỏi: “Đảng là ai” và Người trả lời: “Đảng là mỗi chúng ta", “Lãnh đạo là làm đầy tớ nhân dân và phải làm cho tốt”. Cán bộ, đảng viên cấu thành nên tổ chức đảng, mỗi đảng viên đều phải tham gia sinh hoạt chính trị trong tổ chức đảng. Do đó, vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng phụ thuộc rất lớn vào chất lượng đội ngũ đảng viên. Đạo đức của Đảng thể hiện trực tiếp và sinh động thông qua đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng. Nhân dân cũng hoàn toàn có lý khi đánh giá đạo đức của Đảng thông qua đạo đức của những cá nhân đảng viên cụ thể, nhất là những đảng viên mà họ biết đến hay tiếp xúc nhiều nhất.
Tuy nhiên, Đảng là một tổ chức, một khối đoàn kết và thống nhất để lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo nhân dân. Một tổ chức đảng chân chính cách mạng là môi trường thuận lợi cho những cái tốt, cái đẹp, cái đạo đức sinh sôi, nảy nở và lan tỏa trong mỗi người cũng như trong cộng đồng. Đó cũng là nơi tổ chức việc tuyên truyền, giáo dục rèn luyện đạo đức cách mạng, là nơi kiểm điểm, phê bình, góp ý đảng viên, kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên về đạo đức. Công tác xây dựng Đảng về đạo đức vì thế có vai trò không thể thiếu của tổ chức đảng và cấp ủy các cấp. Hồ Chí Minh yêu cầu mỗi chi bộ, mỗi cấp ủy đảng phải luôn tăng cường công tác tư tưởng của Đảng, nâng cao đạo đức cách mạng, bảo đảm chặt chẽ kỷ luật và tổ chức của Đảng. Tổ chức đảng và cấp ủy phải chịu trách nhiệm tuyên truyền, giáo dục đạo đức của cán bộ, đảng viên. Người khẳng định: “Các cấp ủy phải quan tâm hơn nữa đến việc giáo dục đảng viên. Từ nay trở đi công tác giáo dục đảng viên phải là một điều quan trọng trong chương trình công tác của cấp ủy”. Tổ chức đảng các cấp cũng phải chịu trách nhiệm về việc suy thoái, vi phạm đạo đức của cán bộ, đảng viên trong tổ chức của mình. Nếu trong tổ chức đảng có đảng viên vi phạm thì trách nhiệm trước hết thuộc về cấp ủy của tổ chức. Khi nói với tội tham ô, lãng phí của cán bộ, đảng viên trong tổ chức đảng, Hồ Chí Minh khẳng định: “Các cấp ủy cùng với cán bộ cần tìm cho ra gốc rễ tham ô, lãng phí và xử trí đúng mức”.
Rõ ràng, xây dựng đạo đức của tổ chức đảng và đạo đức của đảng viên có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại với nhau, không thể bỏ qua mặt nào. Vì quan tâm đến nội dung xây dựng đạo đức của tổ chức đảng, cho nên trong quan niệm của Hồ Chí Minh chủ thể tiến hành xây dựng Đảng về đạo đức không chỉ là cán bộ, đảng viên mà còn từ phía tổ chức đảng và các cấp ủy. Đồng thời, Người đưa ra những chỉ dẫn quan trọng để tổ chức đảng và các cấp ủy phát huy vai trò của mình trong xây dựng Đảng về đạo đức.
Nhìn lại toàn bộ di sản của Người, có thể thấy vai trò của cấp ủy và tổ chức đảng trong xây dựng và tổ chức thực hiện đường lối, trong công tác nghiên cứu và vận dụng lý luận, trong việc thường xuyên tuyên truyền, giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên, trong phát huy dân chủ, tự phê bình và phê bình, trong công tác cán bộ, kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên… Đây đều là những giải pháp quan trọng để tổ chức đảng xây dựng những chuẩn mực đạo đức.
Thực hiện di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, trong nhiều năm qua, công tác xây dựng Đảng về đạo đức ngày càng được coi trọng. Xây dựng Đảng được đề cập trong Báo cáo chính trị, Báo cáo xây dựng Đảng và thực hiện Điều lệ Đảng ở các Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng và thường chiếm vị trí nổi bật trong các văn kiện Đại hội. Các nghị quyết Đại hội và các nghị quyết của các Hội nghị Trung ương ở từng nhiệm kỳ (từ Đại hội VI đến Đại hội X) hầu như không nghị quyết nào không đề cập tới nội dung xây dựng Đảng.
Đến Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2), khóa VIII, Đảng ra Nghị quyết về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nêu rõ quyết tâm của toàn Đảng, xây dựng Đảng về mọi mặt, phải nêu cao trách nhiệm và tính tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là đề cao tính tổ chức kỷ luật, đẩy mạnh đấu tranh chống tham nhũng. Đã có một Ban Chỉ đạo từ Trung ương đến hệ thống các cấp ủy để chỉ đạo thực hiện nghị quyết quan trọng này.
Đặc biệt, Hội nghị Trung ương 4, khóa XI đã ra Nghị quyết lịch sử “Về một số vấn đề cấp bách trong xây dựng Đảng hiện nay”. Đây là một nghị quyết, có thể nói đã tổng hợp và kết tinh từ rất nhiều nghị quyết xây dựng Đảng trước đây và nâng cao cả về quan điểm, phương hướng và giải pháp xây dựng Đảng, nghị quyết có tầm vóc lớn, có ảnh hưởng rất lớn trong Đảng và trong nhân dân. Một nghị quyết lịch sử, với dũng khí phê phán, tự phê phán, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh “dựa vào dân mà xây dựng Đảng” của Đảng ta, đáp ứng lòng mong đợi của đông đảo đảng viên và quần chúng, một nghị quyết kịp thời, đúng lúc, rất được lòng dân, vì trách nhiệm cao nhất trước dân tộc và nhân dân mà Đảng tự đổi mới chính mình, đặt nhiệm vụ xây dựng Đảng ở vị trí then chốt.
Cũng do đó, Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII vượt ra khỏi giới hạn, phạm vi một nghị quyết Trung ương mà trở thành một nghị quyết có tầm ảnh hưởng rộng lớn, lâu dài, cả trong những nhiệm kỳ sau đó. Nó gắn liền với sự tồn tại của Đảng, với vai trò lãnh đạo và địa vị cầm quyền của Đảng, có quan hệ tới sinh mệnh của Đảng và sự tồn vong của chế độ.
Như vậy, có thể nói Đại hội XII đã lần đầu tiên nhận thức toàn diện về xây dựng Đảng, đã mở rộng nội dung xây dựng Đảng trên mọi lĩnh vực, mọi phương diện, mọi mối quan hệ, do đó đã đặt vấn đề đạo đức và văn hóa trong Đảng, xác định rõ ràng xây dựng Đảng về đạo đức và xây dựng văn hóa trong Đảng. Xây dựng Đảng về đạo đức, về văn hóa trong tình hình hiện nay là điểm mấu chốt, cốt lõi làm cho Đảng trong sạch, vững mạnh, ngang tầm nhiệm vụ, xứng đáng là Đảng lãnh đạo, cầm quyền.
Đại hội XII đề cập tới hàng loạt vấn đề khác trong công tác xây dựng Đảng mà ở mỗi vấn đề đều liên quan tới xây dựng đạo đức, rèn luyện phẩm chất, hoàn thiện nhân cách đảng viên, nhất là đảng viên có trọng trách lãnh đạo, quản lý. Đó là: Đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị. Kiện toàn tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đảng viên. Đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ, coi trọng công tác bảo vệ chính trị nội bộ. Đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng. Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác dân vận, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân. Đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Thực hiện đầy đủ và có kết quả các nội dung trên đây trong công tác xây dựng Đảng, không chỉ đòi hỏi phẩm chất đạo đức trong sáng, trung thực và trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, chất lượng đạo đức trong từng tổ chức đảng, trước hết của các cấp ủy đảng mà còn đòi hỏi phải “đưa văn hóa vào trong chính trị”, làm cho văn hóa thấm vào đời sống của Đảng, vào các mối quan hệ giữa con người với công việc, với tổ chức và với nhân dân.
Đại hội XII khẳng định: “Coi trọng xây dựng văn hóa trong các tổ chức đảng, cơ quan nhà nước, trong hệ thống chính trị mà nội dung quan trọng là tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”… Đây là một nhận thức lý luận mới, đầy đủ, toàn diện và sâu sắc hơn so với quan niệm trước đây “học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.
Như vậy, vấn đề xây dựng Đảng về đạo đức - phần cốt lõi, chủ đạo của văn hóa, trong Văn kiện Đại hội XII đã được trình bày trong mối liên hệ tổng thể với công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức, từ quan niệm đến nội dung, phương pháp và phương thức lãnh đạo của Đảng. Giải quyết những yêu cầu đặt ra, đòi hỏi tính đồng bộ với những chuyển động tích cực giữa đảng viên với tổ chức đảng, với cấp ủy và người đứng đầu cấp ủy, với quần chúng nhân dân, với Nhà nước và các thiết chế chính trị - xã hội khác của hệ thống chính trị cũng như với toàn xã hội.
Từ đó, có thể nhận thấy nội dung và mục tiêu xây dựng Đảng về đạo đức mà Đại hội XII xác định là rất thiết thực, cụ thể và sâu sắc. Nổi bật và tập trung là những điểm dưới đây: Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; Xác định rõ, đó là công việc thường xuyên của các tổ chức đảng, các cấp chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội, địa phương, đơn vị; Xây dựng Đảng về đạo đức từ việc đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh phải gắn với chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; Phải kiên quyết đấu tranh chống quan liêu tham nhũng, lãng phí, chủ nghĩa cá nhân, lối sống cơ hội, thực dụng, bè phái, “lợi ích nhóm”, nói không đi đôi với làm…
Để xây dựng Đảng về đạo đức, đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư mà Hồ Chí Minh đã nêu ra, bảo đảm cho Đảng thật sự là một đảng cách mạng chân chính “là đạo đức, là văn minh” cần phải chuyển từ ý thức đạo đức sang hành động đạo đức, không chỉ với nỗ lực tự giác, trách nhiệm của từng người mà còn phải nêu cao vai trò, trách nhiệm của tổ chức, của những người lãnh đạo, nhất là phát huy vai trò của dân trong xây dựng Đảng. Xây dựng và thực hiện tốt các quy định để phát huy vai trò gương mẫu trong rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống, phong cách, tác phong, lề lối công tác của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo các cấp, người đứng đầu các cơ quan, đơn vị. Thực hiện nghiêm cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát của các tổ chức đảng, giám sát và phản biện xã hội của mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và của nhân dân về phẩm chất, đạo đức, lối sống của cán bộ đảng viên.
Với những quan điểm, quan niệm nêu trên, Đại hội XII, nhất là Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII đã đánh dấu một mốc quan trọng trong tư duy lý luận của Đảng về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đặc biệt là xây dựng Đảng về đạo đức. Các cấp ủy, tổ chức đảng phải nhận diện đầy đủ, sâu sắc để kiên quyết đẩy lùi 27 biểu hiện của sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, tiếp tục xác định: “Tập trung xây dựng Đảng về đạo đức” nhằm: “làm cho mỗi cán bộ, đảng viên thấy rõ bổn phận và trách nhiệm của mình, luôn vững vàng trước khó khăn, thách thức và không bị cám dỗ bởi vật chất, tiền tài, danh vọng. Nâng cao ý thức tu dưỡng, rèn luyện và thực hành đạo đức cách mạng. Tăng cường đấu tranh chống các quan điểm, hành vi phản đạo đức, phi đạo đức. Cổ vũ, biểu dương các gương sáng đạo đức, tạo ảnh hưởng sâu rộng trong Đảng và ngoài xã hội”[2].
Xây dựng Đảng về đạo đức luôn là việc làm thường xuyên quan trọng trong công tác xây dựng Đảng. Văn kiện XIII của Đảng khẳng định: “Nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện các giá trị đạo đức cách mạng theo tinh thần Đảng ta là đạo đức, là văn minh cho phù hợp với điều kiện mới và truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc”[3].
Xây dựng Đảng về đạo đức thể hiện trong mối quan hệ chặt chẽ với xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức và cán bộ. Trong phương hướng, nhiệm vụ đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, xây dựng văn hóa Đảng, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng xác định: “Trong những năm tới phải đặc biệt coi trọng và đẩy mạnh hơn nữa xây dựng chỉnh đốn Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ”[4]. Trong đó, xây dựng Đảng về đạo đức là “nền tảng”, là “cái gốc” cho Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII đã xác định 10 nhiệm vụ, giải pháp về xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Trong đó, tập trung xây dựng Đảng về đạo đức là vấn đề hết sức quan trọng.
Xây dựng Đảng về đạo đức luôn là việc làm thường xuyên quan trọng trong công tác xây dựng Đảng, trong đó, việc giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên được xem là khâu then chốt, một mục tiêu mà Đảng ta cần phấn đấu, làm cho Đảng luôn xứng đáng với mong mỏi của toàn dân, thực sự tiêu biểu cho “trí tuệ, danh dự và lương tâm của thời đại”.
Thực tiễn triển khai xây dựng Nghị quyết "xây dựng Đảng về đạo đức" tại cơ sở
Nghị quyết lãnh đạo là văn kiện chính trị trọng yếu của các cấp ủy đảng từ cơ sở đến Trung ương. Chính vì vậy, công tác xây dựng nghị quyết luôn là khâu trọng tâm, là một nội dung quan trọng trong hoạt động lãnh đạo của chi bộ, đảng bộ các cấp. Chất lượng nghị quyết lãnh đạo liên quan mật thiết đến năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của chi bộ, quyết định đến mức độ hoàn thành nhiệm vụ của các đơn vị trên tất cả các mặt công tác.
Trong những năm qua, thực hiện sự chỉ đạo của Trung ương về nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, các cấp ủy, tổ chức đảng cơ sở đã tập trung nâng cao chất lượng công tác xây dựng nghị quyết lãnh đạo, tăng cường bám sát thực tiễn công tác, đã tạo được những chuyển biến tích cực trong công tác xây dựng Đảng ở cơ sở cũng như nâng cao chất lượng và mức độ hoàn thành nhiệm vụ của các cơ quan, đơn vị.
Tuy nhiên, trên thực tế vẫn còn không ít tổ chức cơ sở đảng, chi bộ yếu về năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, khả năng nhận thức, vận dụng, cụ thể hóa và tổ chức thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, luật pháp của Nhà nước và cấp ủy cấp trên vào thực tiễn nhiệm vụ còn hạn chế; chưa kịp thời phát hiện, giải quyết những vấn đề phức tạp xảy ra ở cơ sở; chưa có biện pháp hữu hiệu ngăn ngừa, phát hiện, đấu tranh và xử lí kịp thời những đảng viên vi phạm.
Nguyên nhân chủ yếu là, chưa chấp hành nghiêm các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, trong đó đặc biệt là khâu xây dựng nghị quyết lãnh đạo. Công tác kiểm tra đã cho thấy rằng, ở những chi bộ yếu kém, nội dung nghị quyết lãnh đạo rất nghèo nàn, thiếu nội dung; tính lãnh đạo, tính giáo dục, tính chiến đấu, tinh thần tự phê bình và phê bình yếu. Một số nghị quyết lãnh đạo của của các cấp ủy Đảng còn dàn trải, chung chung, chưa xác định được vấn đề trọng tâm, trọng điểm cần lãnh đạo, thậm chí có nghị quyết lãnh đạo của các cấp ủy Đảng có nội dung tương tự như nghị quyết của cấp ủy cấp trên, hoặc có ra nghị quyết lãnh đạo giống như sắp xếp lịch công tác cho cơ quan, đơn vị…
Từ thực tiễn kinh nghiệm tại huyện Cờ Đỏ, khi xây dựng "Nghị quyết chuyên đề về giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên" cần lưu ý một số nội dung sau:
Thứ nhất, về công tác chuẩn bị.
Phải làm tốt khâu chuẩn bị nội dung của dự thảo nghị quyết trên cơ sở nghiên cứu kỹ đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và luật pháp của Nhà nước liên quan đến nhiệm vụ của tổ chức đảng. Nghiên cứu và nắm vững nội dung nghị quyết, chỉ thị, ý kiến chỉ đạo, hướng dẫn của cấp ủy cấp trên, nhất là nghị quyết lãnh đạo của cấp ủy cấp trên trực tiếp. Đồng thời phải nắm chắc nhiệm vụ và tình hình thực tế tai địa phương, nghị quyết đại hội nhiệm kỳ, nghị quyết năm, nghị quyết công tác lãnh đạo quý, kế hoạch xây dựng Đảng bộ trong sạch, vững mạnh và các nội dung liên quan khác. Đặc biệt là phải xác định rõ được các nhiệm vụ trọng yếu cần tập trung lãnh đạo, cũng như những hạn chế, khuyết điểm nổi cộm cần tập trung giải quyết.
Trong quá trình xây dựng dự thảo nội dung nghị quyết cần tiến hành tổ chức lấy ý kiến tham gia của cấp ủy các cấp và các tổ chức quần chúng đối với công tác lãnh đạo của Đảng bộ để việc dự thảo nghị quyết sát tình hình thực tiễn. Trên cơ sở các ý kiến thu thập được Đảng ủy phải tiến hành phân tích, đánh giá một cách khách quan, khoa học để thấy rõ được những nguyên nhân mạnh, yếu trong công tác lãnh đạo. Đặc biệt là, phải thấy được những nguyên nhân của hạn chế, khuyết điểm, dự kiến các nhiệm vụ đột xuất và những vấn đề do thực tiễn đặt ra để có nội dung, biện pháp lãnh đạo kịp thời trong thời gian tới. Các vấn đề đã được xác định phải được đưa vào dự thảo nghị quyết lãnh đạo một cách cụ thể, phản ánh đúng bản chất của vấn đề làm cơ sở cho việc phát triển nội dung xây dựng và đóng góp của cấp ủy các cấp và các đảng viên. Công tác chuẩn bị nội dung dự thảo nghị quyết lãnh đạo của Đảng ủy phải được tiến hành trên cơ sở phát huy năng lực trí tuệ, vai trò, trách nhiệm của từng đảng ủy viên, và các tổ chức quần chúng.
Thứ hai, những nội dung cơ bản của dự thảo nghị quyết.
- Về đặc điểm tình hình: Đánh giá đặc điểm chi phối trực tiếp đến kết quả lãnh đạo của Đảng bộ thời gian qua về công tác giáo dục, rèn luyên đạo đức cách mạng cho tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là những thuận lợi và khó khăn ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện nhiệm vụ về giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên. Bổ sung những thông tin mới liên quan đến nội dung xây dựng nghị quyết như: tình hình trong nước và quốc tế; tình hình kinh tế, chính trị, xã hội địa phương; những chủ trương, chính sách mới của Đảng, Nhà nước; tình hình tư tưởng, chất lượng cán bộ, đảng viên, quần chúng; tình trạng cơ sở vật chất, trang bị kỹ thuật…
- Phần đánh giá kết quả lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ: Căn cứ vào chỉ tiêu, yêu cầu, nội dung đã đề ra trước đây, trong dự thảo nghị quyết cần làm rõ ưu điểm, khuyết điểm, khẳng định kết quả làm được, xác định nguyên nhân những việc chưa làm được. Tập trung đánh giá sâu việc thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm, nêu rõ những hạn chế, khuyết điểm và xác định trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, đặc biệt là cán bộ chủ chốt. Đánh giá kết quả lãnh đạo thực hiện, mức độ hoàn thành và xác định rõ các nguyên nhân liên quan. Trong đó, cần xác định rõ trách nhiệm lãnh đạo của cấp ủy hay đảng viên.
- Phần phương hướng, nội dung, biện pháp lãnh đạo: Khi triển khai các nội dung chính cần khái quát những đặc điểm chi phối, ảnh hưởng trực tiếp đến công tác lãnh đạo nhiệm vụ trong tháng như: những biến động về biên chế tổ chức, về lãnh đạo; các yếu tố khác có thể gây tác động tới nhiệm vụ của đơn vị; dự kiến các nhiệm vụ đột xuất có thể phát sinh… Việc xây dựng nội dung, phương hướng nhiệm vụ và biện pháp lãnh đạo cần phải căn cứ vào chương trình, kế hoạch công tác chung đã được xác định trước đó, kết quả thực hiện nhiệm vụ kỳ trước, yêu cầu nhiệm vụ mới đặt ra và sự chỉ đạo của cấp ủy cấp trên. Nội dung và biện pháp lãnh đạo cần tập trung vào các nhiệm vụ trọng tâm và ưu tiên giải quyết triệt để các vấn đề bức xúc nổi cộm đang tồn tại. Sau khi xác định được nội dung cần tập trung lãnh đạo, dự thảo nghị quyết phải đề ra chỉ tiêu, yêu cầu và các biện pháp cụ thể. Các chỉ tiêu, yêu cầu đặt ra phải sát thực tế, sát đối tượng và khả năng thực hiện của các tổ chức, cá nhân. Cần nêu cụ thể và nên lượng hóa bằng các số liệu, hoặc tỉ lệ (%) phục vụ công tác giao nhiệm vụ và theo dõi kiểm tra, đánh giá, tổng kết. Biện pháp thực hiện phải được xây dựng một cách đồng bộ về chính trị tư tưởng, về công tác tổ chức, về hành chính, chính sách. Đặc biệt cần có giải pháp đột phá để giải quyết dứt điểm những khâu yếu, mặt yếu, tạo chuyển biến vững chắc trong cơ quan, đơn vị.
Trong đó, Đảng ủy, các chi ủy, chi bộ cần đặc biệt chú ý, công tác giáo dục nâng cao đạo đức cách mạng cho tổ chức đảng, đội ngũ cán bộ, đảng viên, không phải chỉ làm trong ngày một, ngày hai mà phải là một quá trình hết sức khó khăn và lâu dài. Phải tiến hành giáo dục đạo đức một cách thường xuyên, liên tục, mọi lúc mọi nơi mới có thể hình thành và nâng cao đạo đức cách mạng cho tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên. Việc giáo dục đạo đức phải được lồng ghép trong sinh hoạt chi bộ, sinh hoạt cơ quan, ban, khoa phòng. Mỗi cán bộ, đảng viên phải tự ý thức, tự giáo dục, tự rèn luyện, tu dưỡng mình mới mang lại hiệu quả cao và vững chắc.
Phải phát huy vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên nói chung, cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu nói riêng trong mọi lĩnh vực công tác và cuộc sống đời thường để làm mẫu mực cho quần chúng. Rèn luyện đạo đức cách mạng là việc phải làm thường xuyên, liên tục, suốt đời; là một trong những biện pháp quan trọng hàng đầu để phòng, chống và đấu tranh tiêu diệt chủ nghĩa cá nhân.
Việc thực hiện tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt chính trị cần phải thực hiện một cách nghiêm túc nhằm mục đích làm cho mỗi cán bộ, đảng viên, nhận rõ ưu điểm để phát huy, chỉ ra khuyết điểm để sửa chữa. Trước hết mỗi cán bộ, đảng viên phải trung thực, tự giác, lấy phẩm chất và danh dự người cộng sản để soi xét bản thân, đánh giá trung thực về mình, tranh thủ sự phê bình góp ý của đồng chí, đồng nghiệp và quần chúng đối với mình. Đồng thời, khắc phục tình trạng xuê xoa, nể nang để lấy lòng, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh, thậm chí tìm cách bao che cho nhau, hoặc lợi dụng phê bình để đả kích cá nhân, thiếu tính xây dựng, thiếu tình thương yêu đồng chí giúp đỡ lẫn nhau.
Nâng cao tính tự giác rèn luyện đạo đức cách mạng của người cán bộ, đảng viên theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Tự giác rèn luyện đạo đức cách mạng hằng ngày là chớ tự kiêu, tự đại. Phải yêu quý, kính trọng giúp đỡ người, phải tự răn mình “chớ nịnh hót người trên, chớ xem khinh người dưới”, thái độ phải luôn chân thành, khiêm tốn, thật thà, đoàn kết, phải học người và giúp người. Phát huy vai trò của dư luận xã hội trong việc nâng cao đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên. Sống trong cộng đồng xã hội, tư tưởng, đạo đức của mỗi cán bộ, đảng viên đều chịu sự chi phối của dư luận xã hội. Trong giáo dục đạo đức, dư luận tập thể, dư luận xã hội có vai trò và sức mạnh to lớn, điều chỉnh nhận thức, hành vi của mỗi cá nhân; là cầu nối giữa giáo dục của tập thể, của tổ chức với tự giáo dục của cán bộ, đảng viên.
- Phân công tổ chức thực hiện nghị quyết: Việc phân công tổ chức thực hiện nghị quyết phải rõ ràng, cụ thể, gắn với chức trách, nhiệm vụ, năng lực của từng tổ chức, cá nhân nhằm đạt hiệu quả cao trong thực tiễn. Chú ý phân công nhiệm vụ cho đảng viên là cán bộ chủ trì, các chi ủy viên, các trưởng ngành, trưởng bộ phận, đảng viên ở các vị trí trọng yếu. Việc phân công tổ chức thực hiện phải được đưa vào nội dung của dự thảo nghị quyết, làm cơ sở cho việc biểu dương, khen thưởng, kiểm điểm, quy trách nhiệm và đánh giá kết quả phấn đấu của tổ chức, cá nhân trong tháng và cuối năm được chính xác.
Sau khi chuẩn bị xong dự thảo nghị quyết, cấp ủy phải tiến hành họp để thông qua nội dung và tranh thủ các ý kiến đóng góp để bổ sung và thống nhất nội dung, hoàn chỉnh dự thảo nghị quyết. Tiến hành báo cáo xin ý kiến chỉ đạo của cấp ủy cấp trên về nội dung dự thảo nghị quyết; mời cấp ủy cấp trên xuống dự. Nội dung dự thảo nghị quyết phải được thảo luận, kết luận, biểu quyết thông qua và theo nguyên tắc.
Nghị quyết được ban hành phải có sự đóng góp trách nhiệm của các cấp ủy đảng, nhất là người đứng đầu trong lãnh đạo ban hành các nghị quyết trong chương trình công tác; đảm bảo sau khi có nghị quyết thì lĩnh vực đó phải có sự chuyển biến thực sự, tạo xung lực cho các lĩnh vực khác. Việc ban hành nghị quyết phải đảm bảo ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ, đảm bảo tính khả thi cao; không ban hành nghị quyết, chỉ thị trùng lặp với nghị quyết, chỉ thị của cấp trên. Ban hành nghị quyết phải có tổ chức kiểm tra, đánh giá và đề ra giải pháp tiếp tục thực hiện.
Việc xây dựng chương trình, kế hoạch hành động của cấp ủy thực hiện nghị quyết phải đảm bảo cụ thể, rõ ràng, có lộ trình, thời gian thực hiện, bảo đảm điều kiện thực hiện (nhân lực, tài lực, thời gian…), phân công rõ trách nhiệm của tổ chức, cá nhân để tập trung lãnh đạo các cấp ủy, tổ chức đảng triển khai thực hiện phù hợp với điều kiện và tình hình thực tế của đơn vị. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kịp thời phát hiện, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, khắc phục hạn chế để triển khai thực hiện có hiệu quả nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Đảng.
Trên đây là một số nội dung trao đổi nhằm nâng cao chất lượng xây dựng dự thảo nghị quyết lãnh đạo của Đảng bộ trong công tác xây dựng nghị quyết về giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đây cũng được coi là khâu trọng yếu, quyết định và khẳng định năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng. Khi có được nghị quyết lãnh đạo sát, đúng, có phân công, phân nhiệm cụ thể và các giải pháp thực hiện đồng bộ, nhất định chất lượng cũng như mức độ hoàn thành nhiệm vụ sẽ có bước tiến vững chắc và khắc phục được cơ bản những tồn tại hiện nay.
[1] V.I.Lê-nin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1977, tập 41, trang 366-367.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. CTQGST, tập 1, trang 184, H.2021.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. CTQGST, tập1, tr.184, H.2021.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. CTQGST, tập 1, tr.190, H.2021.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1977.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết số 04-NQ/TW về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”, ngày 30-10-2016.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. CTQGST, H.2016.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. CTQGST, tập 1, H.2021.