Kinh tế bạc - động lực mới trong bối cảnh già hóa dân số
Việt Nam có tốc độ già hóa dân số nhanh và dự kiến trở thành quốc gia có dân số già vào khoảng năm 2036. Đây không chỉ là thách thức đối với hệ thống an sinh mà còn mở ra cơ hội hình thành một động lực tăng trưởng mới: 'kinh tế bạc', dựa trên trí tuệ, kinh nghiệm và nhu cầu ngày càng đa dạng của hơn chục triệu người cao tuổi trong tương lai gần.
Việt Nam sẽ bước vào giai đoạn dân số già từ năm 2036, mở ra thời đại của “kinh tế bạc”
Phát biểu tại Hội thảo khoa học “Kinh tế bạc ở Việt Nam trong kỷ nguyên mới” do Ban Chính sách, chiến lược Trung ương, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Tạp chí Cộng sản, Hội đồng Lý luận Trung ương và Hội Người cao tuổi Việt Nam phối hợp tổ chức sáng 15/11, Chủ tịch Hội Người cao tuổi (NCT) Việt Nam Nguyễn Thanh Bình nhấn mạnh đây là hội thảo khoa học đầu tiên tại Việt Nam bàn về “Kinh tế bạc”.
Kết quả hội thảo sẽ tạo luận cứ quan trọng để các cơ quan tham mưu chiến lược đề xuất chủ trương, chính sách nhằm hình thành môi trường pháp lý và tâm lý xã hội đồng thuận, đưa kinh tế bạc trở thành động lực đóng góp vào mục tiêu tăng trưởng kinh tế quốc gia đạt hai con số trong tương lai.

Toàn cảnh hội thảo. Ảnh: M.T.
Ông Bình cho biết, sau gần 40 năm đổi mới, Việt Nam đã có một lực lượng lớn NCT trực tiếp tham gia tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng mở và hội nhập. Cả nước hiện có hơn 9 triệu NCT đang lao động, sản xuất và kinh doanh; nhiều người được vinh danh là Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới.
Theo dự báo, năm 2025 tỷ lệ người từ 60 tuổi trở lên sẽ chiếm trên 14% dân số. Đến năm 2036, Việt Nam chính thức bước vào nhóm quốc gia có dân số già. Nhật Bản, Hàn Quốc và Pháp là minh chứng cho việc kinh tế bạc có thể giúp các nước thích ứng hiệu quả với già hóa dân số.
Trong bối cảnh chuyển đổi mô hình tăng trưởng, phát triển kinh tế tri thức, kinh tế xanh và xã hội số, nghiên cứu và hoạch định chính sách kinh tế bạc càng có ý nghĩa đặc biệt, vừa bảo đảm an sinh xã hội vừa nâng cao sức cạnh tranh quốc gia trong kỷ nguyên mới.
Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương Nguyễn Xuân Thắng nhận định Việt Nam đang trải qua giai đoạn già hóa mạnh mẽ nhất châu Á và nằm trong nhóm già hóa nhanh nhất thế giới. Điều này đặt ra thách thức lớn cho hệ thống an sinh nhưng cũng mở ra cơ hội khai thác “nguồn lực nội sinh”, đặc biệt là tri thức, kinh nghiệm và sức sáng tạo của NCT.
Ông Nguyễn Xuân Thắng cho rằng, kinh tế bạc ở Việt Nam trong kỷ nguyên mới dựa trên ba trụ cột chính: Đó là cần đổi mới tư duy, nhận thức về vai trò của người cao tuổi để không lãng phí nguồn lực trong phát triển kinh tế; đổi mới phương thức chăm sóc người cao tuổi theo hướng toàn diện, không ngừng nâng cao chất lượng sống cho người già, người có tuổi bằng hệ thống các dịch vụ cần thiết; cần có một định nghĩa mới về “lực lượng lao động cao tuổi tài năng” trong phát triển nhanh, bền vững.
Phó Chủ tịch Quốc hội Lê Minh Hoan nhấn mạnh kinh tế bạc không chỉ đóng góp vật chất cho tăng trưởng mà còn tác động sâu rộng đến an sinh xã hội, tạo môi trường giúp NCT “sống vui - sống khỏe - sống hạnh phúc”. Già hóa dân số cũng mở ra nguồn lực xã hội lớn với thế hệ “vàng” giàu kinh nghiệm sản xuất, quản trị và tri thức nghề nghiệp, nền tảng để kích hoạt “kho báu tri thức” của hàng chục triệu người.
Để tận dụng tiềm năng này, ông Hoan kiến nghị xây dựng chiến lược quốc gia về kinh tế bạc; tích hợp vào các chương trình phát triển kinh tế - xã hội; ban hành tiêu chuẩn sản phẩm, dịch vụ thân thiện với NCT; đặt mục tiêu cụ thể về mức đóng góp. Cùng với đó là phát triển hạ tầng, thị trường dịch vụ, khuyến khích doanh nghiệp sản xuất sản phẩm phù hợp, xây dựng trung tâm chăm sóc cộng đồng, khu nghỉ dưỡng, không gian văn hóa - thể thao và các nền tảng số thân thiện.
Doanh nghiệp: Nhu cầu người cao tuổi rất rộng, cơ hội lớn nhưng cần chính sách đặc thù
Trao đổi với phóng viên Doanh nhân Việt Nam, bà Nguyễn Thị Kim Thanh, Tổng Giám đốcCTCP Quốc tế Nhân Ái (Nhân Ái Corp) cho rằng quá trình già hóa dân số mở ra cơ hội lớn cho kinh tế bạc khi hình thành lực lượng khách hàng tiềm năng. Điều này buộc doanh nghiệp phải nghiên cứu kỹ từng nhóm tuổi và tình trạng sức khỏe để xây dựng dịch vụ phù hợp.

Bà Nguyễn Thị Kim Thanh, Tổng Giám đốc CTCP Quốc tế Nhân Ái (Nhân Ái Corp). Ảnh: M.T.
Theo bà Thanh, nhu cầu của NCT rất đa dạng, trải rộng từ nhóm khỏe mạnh, tự vận động đến nhóm cần hỗ trợ một phần và nhóm cần chăm sóc dài hạn. “Ở tuổi 60 - 70 nhu cầu khác, 70 - 80, 80 - 90 lại khác. Do đó, hệ thống dịch vụ phải phong phú, gồm: chăm sóc dài hạn, chăm sóc ban ngày, chăm sóc tại nhà, nghỉ dưỡng và mô hình làng hưu trí. Doanh nghiệp cần khảo sát sâu để thiết kế mô hình đáp ứng đúng nhu cầu từng phân khúc".
Bà nhấn mạnh quan niệm về tuổi già đã thay đổi: NCT ngày nay muốn sống chất lượng, chủ động và hưởng thụ nhiều hơn trước. “Không chỉ sống thêm mà phải sống khỏe, sống vui”, bà nói. Người cao tuổi xứng đáng được tận hưởng một giai đoạn nghỉ ngơi trọn vẹn sau thời gian dài cống hiến.
Tuy nhiên, kinh tế bạc có đặc thù riêng khi phần lớn NCT có thu nhập hạn chế, trong khi chi phí vận hành dịch vụ lại phải tuân theo “quy luật thị trường”. “Nếu áp dụng cơ chế doanh nghiệp thông thường thì giá dịch vụ chưa chắc người cao tuổi có thể tiếp cận”, bà nói. Vì vậy, doanh nghiệp rất cần sự đồng hành của Nhà nước.
Theo bà, có ba chính sách trụ cột cần được ưu tiên. Thứ nhất là quy hoạch đất đai: “Cần dành những quỹ đất ưu tiên cho dịch vụ chăm sóc người cao tuổi, giống như giáo dục hay y tế”. Thứ hai là tín dụng ưu đãi để doanh nghiệp tiếp cận vốn dễ dàng hơn thay vì lãi suất thương mại. Thứ ba là chính sách phát triển nguồn nhân lực, bởi chăm sóc người cao tuổi là lĩnh vực mà yếu tố then chốt chính là con người.
Dù Nghị quyết 68 đã tạo động lực cho khu vực tư nhân, bà cho rằng lĩnh vực chăm sóc NCT vẫn cần chính sách đặc thù. “Cùng một mức đầu tư nhưng công sức nhiều hơn, hiệu quả kinh tế thấp hơn và rủi ro lớn hơn thì không phải nhà đầu tư nào cũng dám vào”, bà nói. Do đó, cơ chế vừa chung vừa riêng là cần thiết để thu hút doanh nghiệp mở rộng hệ thống.













