Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Mô hình kinh tế thị trường (KTTT) định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) là một trong những nội dung thường xuyên bị các thế lực thù địch xuyên tạc, bóp méo để chống phá. Vì vậy, hiểu đúng và sâu sắc về thể chế này là việc làm cần thiết để nhận diện, đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch, góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong giai đoạn hiện nay.
KTTT định hướng XHCN là sự đột phá trong tư duy và thực tiễn lãnh đạo sự nghiệp đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam, là kết quả của cả quá trình tìm tòi, thể nghiệm lâu dài, từ chưa đầy đủ đến ngày càng đầy đủ, từ chưa sâu sắc đến ngày càng sâu sắc hơn. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng đúng đắn, sáng tạo lý luận Mác - Lênin về “kinh tế giữ vai trò quyết định”, Đảng ta đã tiếp thu có chọn lọc thành tựu văn minh nhân loại, kết hợp nhuần nhuyễn giữa tư duy quản lý kinh tế của chủ nghĩa tư bản và mục tiêu nhất quán chủ nghĩa xã hội để đề ra mô hình kinh tế phù hợp trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam - KTTT định hướng XHCN.
Đại hội Đảng lần thứ VI, VII, VIII là quá trình tìm tòi, phát triển nhận thức về mô hình KTTT định hướng XHCN, cũng như mối quan hệ và sự kết hợp giữa Nhà nước với thị trường. Quan niệm về KTTT định hướng XHCN mới chỉ được đề cập trên một số lĩnh vực, một số ngành kinh tế nhất định như: công nghiệp nặng, nông - lâm - ngư nghiệp. Đến Đại hội IX, Đảng ta chính thức đưa ra khái niệm KTTT định hướng XHCN, coi đó là mô hình tổng quát, là đường lối chiến lược nhất quán trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Các kỳ Đại hội X, XI tiếp tục khẳng định nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta là “nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam”. Đó là nền kinh tế vừa tuân theo quy luật của thị trường vừa chịu sự chi phối bởi các quy luật kinh tế của chủ nghĩa xã hội và các yếu tố bảo đảm tính định hướng XHCN nhằm phát huy những ưu thế của KTTT và kinh tế kế hoạch, đồng thời loại bỏ những khuyết tật của 2 nền kinh tế đó để thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Đến Đại hội XII, mô hình KTTT định hướng XHCN ở nước ta đã được khắc họa rõ nét và đầy đủ hơn, trở thành đóng góp lý luận cơ bản và sâu sắc của Đảng Cộng sản Việt Nam. Báo cáo do Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trình bày tại phiên khai mạc Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh: “Thống nhất nhận thức nền KTTT định hướng XHCN Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của KTTT; đồng thời, bảo đảm định hướng XHCN phù hợp từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền KTTT hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”…”. Đại hội XIII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh nội dung nêu trên và khẳng định: “Nhận thức về nền KTTT định hướng XHCN ngày càng đầy đủ hơn… Thể chế KTTT định hướng XHCN đang dần được hoàn thiện theo hướng hiện đại, đồng bộ và hội nhập”.
Như vậy, cùng với sự phát triển nhận thức, tư duy lý luận về mô hình KTTT định hướng XHCN, Đảng ta luôn kiên định thực hiện các nội hàm định hướng XHCN của nền KTTT. Đó là nền KTTT hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của KTTT, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng XHCN vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp từng giai đoạn phát triển của đất nước; giải phóng mạnh mẽ và không ngừng phát triển sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân, đẩy mạnh xóa đói, giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu chính đáng, giúp người khác thoát nghèo và từng bước khá giả hơn.
Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố, phát triển; kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển phù hợp chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách kinh tế, tăng trưởng kinh tế đi đôi phát triển văn hóa, y tế, giáo dục, giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người; thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, mức đóng góp vốn, các nguồn lực khác vào sản xuất và thông qua phúc lợi xã hội, dựa trên các nguyên tắc của cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, từ chỗ coi Nhà nước là chủ thể quyết định phân phối chuyển dần sang xác định thị trường là chủ thể quyết định phân phối lần đầu và Nhà nước thực hiện phân phối lại.
Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Trong nền KTTT định hướng XHCN, giữa Nhà nước, thị trường và xã hội có quan hệ chặt chẽ. Nhà nước xây dựng và hoàn thiện thể chế, bảo vệ quyền tài sản, quyền kinh doanh, giữ ổn định kinh tế vĩ mô, các cân đối lớn của nền kinh tế; tạo môi trường thuận lợi, công khai, minh bạch cho các doanh nghiệp, tổ chức xã hội và thị trường hoạt động; điều tiết, định hướng, thúc đẩy kinh tế phát triển, gắn kết phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, đời sống nhân dân, bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Nhà nước quản lý kinh tế bằng luật pháp, cơ chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, các tiêu chuẩn, định mức và lực lượng kinh tế nhà nước phù hợp các yêu cầu và quy luật của KTTT. Thị trường đóng vai trò quyết định trong xác định giá cả hàng hóa, dịch vụ; tạo động lực huy động, phân bổ hiệu quả các nguồn lực; điều tiết sản xuất và lưu thông; điều tiết hoạt động của doanh nghiệp, thanh lọc những doanh nghiệp yếu kém. Các tổ chức xã hội có vai trò tạo sự liên kết, phối hợp hoạt động, giải quyết những vấn đề phát sinh giữa các thành viên; đại diện và bảo vệ lợi ích của các thành viên trong quan hệ với các chủ thể, đối tác khác; cung cấp dịch vụ hỗ trợ cho các thành viên; phản ánh nguyện vọng, lợi ích của các tầng lớp nhân dân với Nhà nước và tham gia phản biện luật pháp, cơ chế, chính sách của Nhà nước, giám sát các cơ quan và đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước trong việc thực thi pháp luật.
Việc lựa chọn mô hình KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam là đúng với xu hướng chung của loài người; đồng thời, là mô hình thiết thực, hiệu quả phù hợp với hoàn cảnh lịch sử - xã hội của dân tộc, đã được chứng minh bằng thành tựu vượt bậc sau 35 năm đổi mới đất nước. Do đó, việc xuyên tạc, bóp méo nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam chỉ là những luận bàn hoàn toàn không mang tính khoa học và thực tiễn.