Kinh tế Việt Nam sau 30 năm gia nhập ASEAN: Hướng tới hội nhập chất lượng cao

Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 7 của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) vào ngày 28/07/1995. Quyết định này không chỉ mang ý nghĩa chính trị – ngoại giao, mà còn là bước ngoặt định hình con đường phát triển của đất nước trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế.

Sau ba thập kỷ, từ một nền kinh tế nhỏ, khép kín và phụ thuộc viện trợ, Việt Nam đã có những bước tiến dài trong hội nhập kinh tế khu vực, trở thành một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất châu Á. Nhân dấu mốc quan trọng này, ông Nguyễn Anh Đức – Trưởng Đại diện kinh tế thường trực Việt Nam tại ASEAN có bài viết về những thách thức cũng như thuận lợi trong quá trình 30 năm gia nhập ASEAN cũng như định hướng sắp tới của Việt Nam.

Ông Nguyễn Anh Đức – Trưởng Đại diện kinh tế thường trực Việt Nam tại ASEAN

Ông Nguyễn Anh Đức – Trưởng Đại diện kinh tế thường trực Việt Nam tại ASEAN

Gia nhập ASEAN liệu có phải là một quyết định đúng đắn?

Giai đoạn trước khi gia nhập ASEAN, Việt Nam vốn là một nước kém phát triển, lại bị chiến tranh tàn phá rất nặng nề, cộng thêm cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng. Sau chiến tranh, Mỹ và phương Tây đã áp đặt và duy trì cấm vận kinh tế với Việt Nam trong hàng chục năm. Lương thực, hàng hóa nhu yếu phẩm hết sức thiếu thốn, khoảng 3/4 dân số sống dưới mức nghèo khổ. Nhiệm vụ phục hồi và xây dựng đất nước được đặt lên hàng đầu, trong đó bao gồm đẩy mạnh phát triển kinh tế để tạo cơ sở xây dựng sức mạnh tổng hợp quốc gia. Lúc này, vấn đề gia nhập ASEAN được đặt ra, phù hợp với chủ trương ưu tiên thúc đẩy quan hệ với các nước láng giềng và các nước trong khu vực. ASEAN là sự lựa chọn không thể hợp lý hơn bởi vì sự gần gũi về khoảng cách địa lý và hiệu quả trong mô hình phát triển của các quốc gia thành viên đã được minh chứng. Kết quả là gia nhập ASEAN cũng như việc tăng cường sự hợp tác song phương đáng kể giữa Việt Nam và các nước thành viên ASEAN đã đóng góp đáng kể cho sự phục hồi, phát triển kinh tế của Việt Nam.

Như vậy có thể khẳng định rằng, 30 năm trước, việc gia nhập ASEAN là một quyết sách nhằm “chủ động” phá thế bao vây cấm vận, là bước đi đầu tiên trong công cuộc hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước và trở thành cầu nối vững chắc kết nối Việt Nam với nền kinh tế toàn cầu. Sự kết nối này thể hiện từ việc tham gia ASEM, APEC, ký Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ (BTA), gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), cho đến việc tham gia các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới với tiêu chuẩn cao nhất như Hiệp định CPTPP hay FTA với EU. Chắc chắn là nếu không có việc gia nhập ASEAN thì chúng ta không thể hội nhập, phát triển mối quan hệ hợp tác kinh tế sâu rộng với các đối tác khác trong khu vực và trên thế giới.

Việt Nam đạt được gì từ việc gia nhập ASEAN

Cái được quan trọng nhất và cũng là tổng quát nhất, như đã đề cập ở trên, gia nhập ASEAN là bước hội nhập đầu tiên để phá vỡ bao vây cấm vận sau đó tiến tới hội nhập toàn cầu, đóng góp đáng kể cho sự phục hồi và phát triển kinh tế, nâng cao vị thế của đất nước trên trường quốc tế. Về mặt cụ thể, Việt Nam đạt được nhiều lợi ích, tiêu biểu như:

Thứ nhất, là một nền kinh tế chuyển mình

Khi gia nhập ASEAN, quy mô kinh tế Việt Nam còn rất khiêm tốn: GDP năm 1995 chỉ đạt khoảng 20,7 tỷ USD, thu nhập bình quân đầu người chưa đến 300 USD. Nền kinh tế lúc đó phụ thuộc chủ yếu vào nông nghiệp, công nghiệp nhẹ và viện trợ nước ngoài.

Ba mươi năm sau, Việt Nam đã vươn lên trở thành nền kinh tế có quy mô lớn thứ tư trong ASEAN và đứng 33 thế giới, với GDP đạt 476 tỷ USD năm 2024, tăng hơn 22 lần so với thời điểm gia nhập. Thu nhập bình quân đầu người đạt 4.728 USD, đưa Việt Nam chính thức bước vào nhóm quốc gia có thu nhập trung bình.

Tốc độ tăng trưởng GDP trung bình khoảng 6,5–7%/năm trong suốt ba thập kỷ qua là một con số hiếm có trên thế giới. Thương mại hàng hóa và dịch vụ đã trở thành động lực chính của nền kinh tế, với kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2024 đạt trên 786 tỉ USD, gấp hơn 15 lần so với năm 1995.

Trong khuôn khổ Cộng đồng Kinh tế AEC, Việt Nam được hưởng lợi lớn từ tự do hóa thương mại và mở cửa đầu tư. Kim ngạch thương mại hai chiều giữa Việt Nam và các nước ASEAN tăng từ 6 tỷ USD năm 1996 lên gần 90 tỷ USD năm 2024. ASEAN hiện là đối tác thương mại lớn thứ ba của Việt Nam, sau Trung Quốc và Hoa Kỳ, đồng thời là nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) lớn thứ hai, chiếm hơn 20% tổng vốn FDI đăng ký.

Đặc biệt, Singapore, Thái Lan và Malaysia trở thành những nhà đầu tư hàng đầu, góp phần hình thành các khu công nghiệp và trung tâm sản xuất lớn khắp cả nước như tại Bắc Ninh, Bình Dương, Đồng Nai, Hải Phòng... Nhờ hội nhập sâu vào thị trường khu vực, Việt Nam từng bước tham gia chuỗi cung ứng ASEAN trong các lĩnh vực điện tử, dệt may, thực phẩm chế biến, và logistics.

Ngoài ra, Việt Nam tích cực tham gia và triển khai các sáng kiến khu vực trong khuôn khổ Kế hoạch Tổng thể về Kết nối ASEAN (MPAC), thúc đẩy kết nối cơ sở hạ tầng, thể chế và con người. Các dự án như hành lang kinh tế Đông – Tây, tuyến cao tốc Bắc – Nam và phát triển cảng biển quốc tế giúp tăng cường liên kết thương mại và logistics.

Thứ hai, là cải cách và nâng chuẩn

Hội nhập ASEAN không chỉ là sự mở cửa về hàng hóa và đầu tư, mà còn là quá trình chuyển đổi thể chế và nâng cấp năng lực quản trị quốc gia.

Trong gần ba thập kỷ, Việt Nam đã nội luật hóa hàng loạt cam kết khu vực: hài hòa hơn 90% biểu thuế nhập khẩu theo Hiệp định Thương mại Hàng hóa ASEAN (ATIGA), thực hiện Cơ chế một cửa ASEAN, và tham gia sâu vào các sáng kiến kết nối hạ tầng, thương mại điện tử và chuyển đổi số của Cộng đồng AEC 2025.

Nhờ quá trình xây dựng Cộng đồng AEC, Việt Nam đã không ngừng cải cách thể chế, nâng cao năng lực cạnh tranh và môi trường đầu tư. Trong bảng xếp hạng Chỉ số Năng lực cạnh tranh toàn cầu (WEF), Việt Nam liên tục nằm trong nhóm dẫn đầu các nước có cải thiện nhanh nhất khu vực. Cải cách thủ tục hành chính, đầu tư vào logistics và cơ sở hạ tầng, cùng định hướng phát triển kinh tế xanh, kinh tế số giúp Việt Nam dần chuyển sang mô hình tăng trưởng dựa trên đổi mới và năng suất. Các doanh nghiệp Việt Nam ngày càng năng động hơn, tận dụng tốt cơ hội từ hội nhập khu vực để vươn ra thị trường quốc tế. Bên cạnh việc tích cực tham gia các chuỗi giá trị toàn cầu (với các đối tác trong và ngoài ASEAN), nhiều sản phẩm “Make in Viet Nam” đã có mặt rộng rãi trong khu vực như tại Thái Lan, Indonesia, Malaysia và Singapore, cũng như tại nhiều nước khác trên thế giới.

Vậy Việt Nam mất gì khi gia nhập ASEAN?

Có thể nói Việt Nam không mất gì từ việc gia nhập ASEAN, nếu có thì chỉ là những thách thức mang tính tích cực để Việt Nam tiếp tục phấn đấu, vượt qua.

Đầu tiên là áp lực cạnh tranh ngày càng lớn đối với doanh nghiệp trong nước. Khi các rào cản thuế quan được gỡ bỏ, doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt trực tiếp với các đối thủ từ Thái Lan, Malaysia hay Indonesia – những nước có nền công nghiệp phát triển và năng lực quản trị cao hơn. Điều này dẫn đến thâm hụt thương mại với ASEAN trong nhiều thời kỳ. Ví dụ, trong 5 tháng đầu năm 2025, Việt Nam thâm hụt 6,5 tỷ USD với ASEAN, tăng 67% so cùng kỳ năm trước.

Thứ hai, phần lớn doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEs) của Việt Nam vẫn thiếu vốn, thiếu công nghệ và chưa đủ sức tham gia chuỗi cung ứng khu vực. Theo ước tính của Ban Thư ký ASEAN, chỉ khoảng 1/3 doanh nghiệp Việt Nam có thể tận dụng được ưu đãi thuế quan trong khuôn khổ ATIGA. Điều này khiến lợi ích hội nhập bị phân bổ không đều – vẫn tập trung nhiều vào khu vực doanh nghiệp FDI.

Một vấn đề khác là sự phụ thuộc vào chuỗi cung ứng khu vực. Mặc dù xuất khẩu của Việt Nam tăng mạnh, nhưng phần lớn giá trị gia tăng lại nằm ở khâu lắp ráp. Các ngành chủ lực như điện tử, dệt may, da giày vẫn phải nhập khẩu phần lớn linh kiện, nguyên liệu từ các nước ASEAN và Trung Quốc. Điều này khiến nền kinh tế dễ tổn thương khi chuỗi cung ứng toàn cầu biến động.

Bên cạnh đó, khoảng cách phát triển nội khối vẫn là thách thức đáng kể. Dù đã tăng trưởng nhanh, vượt qua Philippines và tiệm cận Indonesia, GDP bình quân đầu người của Việt Nam (khoảng 4.700 USD) vẫn chỉ bằng một nửa Thái Lan, một phần ba Malaysia và một phần 19 Singapore. Khoảng cách lớn này phản ánh sự khác biệt về năng suất lao động, công nghệ và trình độ quản trị – những yếu tố mà Việt Nam cần tiếp tục đầu tư mạnh.

Hướng tới hội nhập chất lượng cao

Sau 30 năm, sự phát triển của nền kinh tế nước nhà đã chứng minh rằng hội nhập ASEAN là một lựa chọn đúng đắn và chiến lược. Hội nhập giúp mở cửa thị trường, thu hút đầu tư, chuyển giao công nghệ và thúc đẩy cải cách. Tuy nhiên, nếu muốn tiến xa hơn trong giai đoạn tới, Việt Nam không thể chỉ dựa vào lợi thế chi phí lao động thấp hay thu hút FDI, mà cần nâng cao năng lực nội sinh – đặc biệt trong ba trụ cột: năng suất, đổi mới và tự chủ công nghệ.

Trọng tâm phát triển 10–20 năm tới phải hướng tới việc xây dựng nền kinh tế có khả năng cạnh tranh khu vực, phát triển mạnh công nghiệp hỗ trợ, chuyển đổi số toàn diện, và giảm phụ thuộc vào các khâu gia công, lắp ráp. Bên cạnh đó, Việt Nam cần phát huy vai trò trong chuỗi giá trị ASEAN, không chỉ là điểm đến đầu tư mà còn là trung tâm sáng tạo, dịch vụ và logistics.

Nếu 30 năm đầu là giai đoạn “mở cửa để phát triển”, 30 năm tiếp theo phải là giai đoạn “phát triển để hội nhập sâu hơn”. Bước sang giai đoạn mới hướng tới Tầm nhìn Cộng đồng ASEAN 2045, Việt Nam có cơ hội trở thành một trụ cột tăng trưởng và điểm tựa kết nối khu vực – với điều kiện hội nhập phải đi đôi với bản lĩnh, tự cường và khả năng đổi mới không ngừng.

Hiện nay, thế giới đang đứng trước những thay đổi sâu sắc, chiến tranh thương mại gia tăng, xu hướng bảo hộ mậu dịch trỗi dậy, đặc biệt là việc áp thuế đối ứng của Hoa Kỳ thời gian gần đây, làm thay đổi các hình thái hợp tác trên phạm vi toàn cầu. Trong bối cảnh đó, Việt Nam cần tiếp tục phát huy vai trò chủ động, dẫn dắt và kiến tạo của mình trong ASEAN, cùng các nước xây dựng một Cộng đồng AEC thịnh vượng, tự cường và bền vững./.

PV/VOV-Jakarta

Nguồn VOV: https://vov.vn/kinh-te/kinh-te-viet-nam-sau-30-nam-gia-nhap-asean-huong-toi-hoi-nhap-chat-luong-cao-post1240471.vov