KPMG: Doanh nghiệp đang phải 'vật lộn' với hàng rào phi thuế quan

Doanh nghiệp xuất khẩu vào các nước ASEAN đang vấp phải hàng loạt khó khăn từ quy định phi thuế quan như: thời gian cấp phép kéo dài, đòi hỏi truy xuất nguồn gốc khắt khe, yêu cầu ghi nhãn phức tạp, bắt buộc nhiều thông tin trên nhãn hàng hóa...

Bà Nguyễn Hoài Phương- Luật sư điều hành, Trưởng chi nhánh Hà Nội, Công ty Luật KPMG tại Việt Nam. Ảnh: Đức Thanh

Bà Nguyễn Hoài Phương- Luật sư điều hành, Trưởng chi nhánh Hà Nội, Công ty Luật KPMG tại Việt Nam. Ảnh: Đức Thanh

Nhiều rào cản phi thuế quan "ẩn" dưới chính sách công

Sáng 27/6, Báo Tài chính Đầu tư (Bộ Tài chính) phối hợp với Đại sứ quán New Zealand tại Việt Nam tổ chức Hội thảo “Gỡ rào cản phi thuế quan (NTB) vì thịnh vượng chung ASEAN”.

Chia sẻ tại hội thảo, bà Nguyễn Hoài Phương- Luật sư điều hành, Trưởng chi nhánh Hà Nội, Công ty Luật KPMG tại Việt Nam có bài phát biểu về một số thách thức phi thuế quan mà cộng đồng doanh nghiệp đang gặp phải, bắt đầu từ câu chuyện cụ thể về tranh chấp thương mại giữa Indonesia và Liên minh châu Âu (EU) liên quan đến mặt hàng dầu cọ (vụ DS 593).

Là thị trường tiêu thụ dầu cọ lớn, EU đã ban hành các chỉ thị về năng lượng tái tạo, nổi bật là RED II (Renewable Energy Directive II), trong đó đặt ra các tiêu chí bền vững cho các loại nhiên liệu sinh học, bao gồm việc hạn chế hoặc loại bỏ dần việc sử dụng dầu cọ làm nhiên liệu sinh học, dựa trên lập luận rằng việc sản xuất dầu cọ gây ra phá rừng và suy thoái môi trường, dẫn đến phát thải khí nhà kính cao.

Cụ thể, RED II giới hạn tỷ lệ nhiên liệu sinh học có nguồn gốc từ cây lương thực, trong đó có dầu cọ, chỉ được chiếm tối đa 7% trong tổng tiêu thụ năng lượng cuối cùng cho vận tải và đặt mục tiêu loại bỏ hoàn toàn các nhiên liệu có nguy cơ ILUC cao trước năm 2030, trừ khi doanh nghiệp chứng minh được không liên quan đến phá rừng hay sử dụng đất suy thoái.

Trong khi đó, Indonesia (nhà sản xuất và xuất khẩu dầu cọ lớn nhất thế giới) cho rằng đây là một rào cản phi thuế quan trá hình, một biện pháp phân biệt đối xử của EU nhằm bảo vệ ngành công nghiệp dầu thực vật của EU và hạn chế cạnh tranh từ dầu cọ.

Các biện pháp này đã cản trở việc xuất khẩu dầu cọ sang EU của Indonesia và khiến quốc gia này khiếu nại lên Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). WTO, mặc dù thừa nhận những lo ngại về môi trường của EU nhưng cũng cho biết mức giới hạn này không được áp dụng nhất quán và gây gánh nặng không cân xứng cho dầu cọ Indonesia.

Hiện vụ việc vẫn đang được WTO xem xét, và kết quả sẽ có tác động đáng kể đến thương mại dầu cọ toàn cầu và quan hệ thương mại giữa hai bên.

Theo bà Hoài Phương, câu chuyện trên là một minh chứng điển hình về việc NTB đang trở thành một rào cản thương mại không nhỏ đối với cộng đồng doanh nghiệp, và NTB có thể có những tác động bất hợp lý với các đối tác, các bên liên quan khi xảy ra các cái vụ việc.

Theo định nghĩa của UNCTAD (2010), rào cản phi thuế quan là các biện pháp chính sách ngoài thuế quan hải quan có khả năng ảnh hưởng kinh tế đến thương mại quốc tế, làm thay đổi khối lượng hoặc giá trị hàng hóa giao dịch. Rào cản này thường không hiển hiện rõ ràng, bởi chúng được “ngụy trang” dưới các chính sách y tế, an toàn, môi trường, tiêu chuẩn kỹ thuật hoặc hành chính.

Đại diện KPMG cũng cho hay, năm 2021 toàn thế giới có khoảng hơn 1.000 rào cản thương mại phi thuế quan, gây tác động rất lớn với thương mại toàn cầu. Năm 2024, 2025 có khoảng 300- 500 biện pháp mang tính chất phân biệt đối xử thường niên, được một số quốc gia tung ra làm tăng số lượng các rào cản phi thuế quan và siết chặt các khuôn khổ quản lý khác.

Nhấn mạnh thực tế hiện nay thuế quan đang được các quốc gia cắt giảm, bà Hoài Phương cho biết, theo các hiệp định thương mại tự do (FTA), thuế quan gần như biến mất song đồng thời để lại những sản phẩm được "quản lý chặn" bởi các rào cản phi thương mại.

Các nhà hoạch định chính sách, thiết kế lập pháp thiết kế các khuôn khổ mới, tạm gọi là những biện pháp vật chất của chính sách liên quan chặt chẽ đến các khía cạnh mang tính chất địa chính trị của các quốc gia.

Bà Nguyễn Hoài Phương trình bày tham luận tại Hội thảo sáng 27/6. Ảnh: Đức Thanh

Bà Nguyễn Hoài Phương trình bày tham luận tại Hội thảo sáng 27/6. Ảnh: Đức Thanh

Trong đó, có những biện pháp NTB mang tính chất bảo hộ rất cao, liên quan đến lợi ích của công chúng như vấn đề kinh tế, vấn đề môi trường, buộc các doanh nghiệp phải tuân thủ để các sản phẩm xuất nhập khẩu của họ có thể tương tác với các thị trường khác trong khu vực và trên thế giới.

"Đáng lưu ý, rất nhiều quy định phi thuế quan đang được "ẩn mình" dưới hình thức là các chính sách công và đây là một thách thức lớn đối với doanh nghiệp", bà Phương nhấn mạnh.

58% thương mại tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương bị tác động

Dẫn theo báo cáo APTIR 2019, Luật sư đại diện của KPMG cho biết, khoảng 58% thương mại khu vực châu Á - Thái Bình Dương chịu ảnh hưởng bởi các rào cản phi thuế quan.

Theo bà Phương, các NTB phổ biến được quan sát là các biện pháp kỹ thuật, các nguyên tắc và các thủ tục tùy chỉnh, các hạn chế liên quan đến cạnh tranh trong thị trường, các hạn chế đối với dịch vụ, thuế nội bộ của các khoản phí... Ngoài ra, các NTB khác liên quan đến sở hữu trí tuệ, thực hành mua sắm của Chính phủ, biện pháp tài chính và nhiều dạng thức của NTB khác nữa.

Trong khu vực ASEAN, vị này cũng dẫn ra nhiều hình thức NTBs phổ biến hiện nay, bao gồm yêu cầu nội địa hóa dữ liệu như Luật Bảo vệ Dữ liệu Cá nhân (PDP) của Indonesia năm 2022 yêu cầu dữ liệu công và tài chính phải lưu trữ trong nước hay Nghị định 53/2022/NĐ-CP của Việt Nam quy định tương tự với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

Bên cạnh đó là các yêu cầu chồng chéo về thử nghiệm và chứng nhận. Ví dụ, Philippines yêu cầu thuốc dù đã đạt chuẩn quốc tế vẫn phải thử nghiệm lâm sàng trong nước, hay Việt Nam không còn chấp nhận các báo cáo thử nghiệm quốc tế với sản phẩm ICT. Các yêu cầu về xuất xứ phức tạp mà nhiều nước đưa ra gây khó khăn cho nhà xuất khẩu khu vực cũng là "rào cản" thường thấy.

Tại Việt Nam, các doanh nghiệp nhập khẩu thường vướng phải tình trạng thời gian cấp phép kéo dài, chi phí lưu kho tăng cao, yêu cầu ghi nhãn phức tạp, bắt buộc nhiều thông tin trên nhãn, gây khó khăn cho hàng tiêu dùng.

Trong khi đó, doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam cũng gặp rào cản khi chứng nhận sản phẩm của Việt Nam không được đối tác công nhận, phải kiểm tra lại từ đầu, gây tốn kém và chậm trễ. Sự khác biệt lớn về tiêu chuẩn kiểm dịch thực vật, dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, hay yêu cầu xuất xứ... cũng khiến nhiều lô hàng bị ách tắc.

Từ góc nhìn của KPMG, sở dĩ có tình trạng này là vì "các quốc gia ASEAN có một sự hài hòa khá yếu giữa các tiêu chuẩn quốc gia và khu vực". Mặc dù có một hệ thống tiêu chuẩn đặc thù cho ASEAN, nhưng thực tế hệ thống này chỉ gọi là thông tin liên quan tới NTB cũng như các hướng dẫn cho các quốc gia thành viên áp dụng như thế nào, các tuyên bố của NTB như thế nào…

"Hệ thống này không phải lúc nào cũng được cập nhật và đôi khi nó không đủ rõ ràng để các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ vừa có thể hiểu biết và áp dụng. Nó cũng không được chia sẻ đầy đủ với các đối tác và các bên liên quan", bà Phương nhấn mạnh.

Toàn cảnh hội thảo. Ảnh: Đức Thanh

Toàn cảnh hội thảo. Ảnh: Đức Thanh

Trong khi đó, doanh nghiệp đang phải vật lộn rất nhiều với các sản phẩm, quy trình này. Phân tích cụ thể, đại diện KPMG cho rằng, có ba thách thức lớn nhất liên quan đến NTB đối với các doanh nghiệp hiện nay.

Thứ nhất, quá nhiều thủ tục hành chính dẫn đến việc nhập khẩu bị chậm trễ, làm tăng chi phí bổ sung do thời gian lưu kho kéo dài; các đôi khi không có sẵn tại chỗ.

Thứ hai, sự chậm trễ nhận được chứng nhận sự phù hợp của hàng hóa từ chính quyền các địa phương. "Mặc dù luật của Việt Nam không cấm doanh nghiệp FDI tham gia vào các hoạt động xuất nhập khẩu; tuy nhiên hoạt động đó chưa được "mở cửa an toàn" theo cam kết hội nhập WTO của Việt Nam", bà Phương nói.

Thứ ba là các yêu cầu về mặt kỹ thuật kiểm tra, kiểm soát, nguyên tắc xuất xứ hàng hóa... khó thực hiện và thiếu đồng bộ. "Hiện Việt Nam có rất nhiều yêu cầu kỹ thuật khác nhau, áp dụng với các quốc gia khác nhau và tất nhiên làm chi phí cao hơn", vị này nói.

Cho rằng cần nới lỏng tác động của các rào cản phi thuế quan, theo Luật sư Nguyễn Hoài Phương, trước hết cần xây dựng những giải pháp ban đầu của ASEAN để giải quyết các vấn đề liên quan tới NTB.

Cụ thể, nên khuyến khích sử dụng Cổng thông tin thương mại ASEAN (là một kho lưu trữ thương mại) để cập nhật và chia sẻ chính sách, từ đó, tăng cường minh bạch hóa thông tin, không tạo thêm rào cản cho doanh nghiệp. Cùng với đó, cần áp dụng các nguyên tắc rõ ràng, hợp lý, minh bạch và không phân biệt đối xử khi ban hành NTBs mới.

Mỗi quốc gia cần cải thiện nội lực trong nước bằng cách thúc đẩy các sáng kiến của Chính phủ điện tử, tăng cường tự động hóa, đơn giản hóa quy trình cấp phép, tăng cường mức độ công nhận lẫn nhau về tiêu chuẩn.

Ngoài ra, cần chú trọng đào tạo, kết nối, hỗ trợ doanh nghiệp giúp các doanh nghiệp nhỏ và vừa hiểu hơn chính sách, khung pháp lý có liên quan. Điều này sẽ giúp nâng cao năng lực cho các doanh nghiệp trong việc hiểu và đáp ứng yêu cầu của thị trường xuất khẩu.

“Không thể loại bỏ hoàn toàn rào cản phi thuế quan, nhưng các giải pháp thích ứng sẽ giúp các nhà xuất khẩu ASEAN sẵn sàng tuân thủ các NTB nước ngoài”, bà Phương nhấn mạnh.

Minh Minh

Nguồn ĐTCK: https://tinnhanhchungkhoan.vn/kpmg-doanh-nghiep-dang-phai-vat-lon-voi-hang-rao-phi-thue-quan-post371982.html