Kỳ 1: Diệt giặc dốt - Gốc dễ của dân chủ

Tháng Tám năm 1945, giữa núi rừng Tân Trào (Tuyên Quang), hơn 60 đại biểu khắp mọi miền hội tụ bàn việc nước, mở đầu cho nền dân chủ non trẻ của Việt Nam. Ngay sau độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động phong trào “Bình dân học vụ”, coi “giặc dốt” là một trong ba kẻ thù lớn phải diệt.
Gần 80 năm qua, đất nước đổi thay, nhưng ở nhiều bản làng vùng cao, “giặc dốt” vẫn chưa bị xóa sổ hoàn toàn. Diệt “giặc dốt” hôm nay không chỉ là chuyện học chữ, mà là nhiệm vụ chính trị – gốc rễ để xây dựng nền dân chủ thực chất.

Việc tổ chức Quốc dân Đại hội tại Tân Trào vào ngày 16 và 17/8/1945 là một dấu mốc trọng đại trong lịch sử dân tộc. Tại ngôi đình Tân Trào, tỉnh Tuyên Quang, hơn 60 đại biểu đại diện cho ba miền Bắc – Trung – Nam, các dân tộc, tôn giáo và kiều bào ở nước ngoài đã tụ hội, mang theo khát vọng độc lập và dân chủ. Đại hội đã thông qua 10 chính sách lớn của Mặt trận Việt Minh, trong đó có những tư tưởng mang tầm khai sáng: giành chính quyền, xây dựng một nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hoàn toàn độc lập, ban bố quyền của dân - nhân quyền, dân quyền, tài quyền; chống nạn mù chữ, phổ cập và cưỡng bách giáo dục.
Chỉ vài tháng sau, trong nước Việt Nam mới giành độc lập, Quốc hội khóa I được thành lập thông qua cuộc Tổng tuyển cử với hình thức phổ thông đầu phiếu. Lần đầu tiên trong lịch sử, người dân trực tiếp lựa chọn những người đại diện cho mình. Từ việc “bàn việc nước” đến quyền “bầu người lo việc nước”, người dân đã thực sự trở thành chủ thể của Nhà nước.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đến bầu cử tại nhà số 10, phố Hàng Vôi, Hà Nội. Ảnh tư liệu

Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời sau cuộc tuyển cử đầu tiên trong cả nước ngày 6-1-1946. Ảnh tư liệu
Nhưng để dân chủ ấy trở thành hiện thực, trước hết phải có dân trí. Ngay sau ngày độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”, và trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời (ngày 3/9/1945), Người phát động cuộc chiến chống ba thứ giặc: Giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. “Giặc dốt” - kẻ thù thầm lặng nhưng nguy hiểm nhất được đặt ngang hàng với giặc ngoại xâm, bởi nó là tảng băng chìm ngăn cản dân trí và dân chủ.
Từ tư tưởng đó, phong trào “Bình dân học vụ” được Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động như một cuộc cách mạng khai sáng dân trí, lan tỏa khắp mọi miền đất nước. Ở Tuyên Quang, phong trào ấy rực sáng như ngọn đuốc nơi núi rừng: “Toàn dân học chữ, toàn dân dạy chữ.”

Hưởng ứng phong trào diệt “giặc dốt”, người dân đốt đèn đi học chữ ban đêm.
Những năm 60 của thế kỷ XX, vùng Hà Giang – Tuyên Quang vẫn còn đầy gian khó: địa hình hiểm trở, tập quán lạc hậu, kinh tế kiệt quệ, “giặc dốt” vẫn hoành hành. Có tới 80% dân số trong độ tuổi lao động chưa biết chữ – một con số phản ánh sâu sắc khoảng cách giữa khát vọng dân chủ và nền tảng dân trí.Tháng 3 năm 1961, trong chuyến thăm đồng bào Hà Giang (nay thuộc Tuyên Quang), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói một câu giản dị mà mang tầm triết lý: “Đồng bào phải cố gắng xóa nạn mù chữ, phải biết đọc, biết viết thì làm ăn mới tiến bộ".
Đặc biệt, khi biết trong hơn 2.000 đảng viên của tỉnh có hơn 200 người mù chữ, Bác đặt câu hỏi thẳng thắn mà thấm thía: “Đảng ta là Đảng lãnh đạo, Đảng phục vụ nhân dân. Nếu mù chữ thì lãnh đạo ai? Tự mình không lãnh đạo được mình còn lãnh đạo ai?” Và Người ra mệnh lệnh rõ ràng: “Nội trong năm nay, các đảng viên này phải biết đọc, biết viết".

Trong chuyến thăm Hà Giang (cũ) năm 1961, Bác Hồ căn dặn: “Đồng bào phải cố gắng xóa nạn mù chữ, phải biết đọc, biết viết thì làm ăn mới tiến bộ”.
Từ đó, phong trào diệt “giặc dốt” được nâng lên thành trách nhiệm chính trị, thành tiêu chí của người cán bộ cách mạng. Bởi lẽ, chỉ khi người lãnh đạo có tri thức mới đủ khả năng dẫn dắt nhân dân đi lên, và chỉ khi người dân hiểu biết mới có thể làm chủ vận mệnh của chính mình.
Từ Tân Trào năm 1945 đến lời dạy năm 1961, sợi chỉ đỏ xuyên suốt vẫn là tư tưởng nâng cao dân trí để mở rộng dân quyền. Tri thức không chỉ là điều kiện để thoát nghèo, mà còn là cội nguồn của dân chủ; bởi một nền dân chủ thực chất chỉ có thể được xây dựng trên nền tảng của một dân tộc hiểu biết, tự tin và có năng lực làm chủ.

Suốt 80 năm qua, chặng đường “giặc dốt” ở Tuyên Quang (Tuyên Quang cũ và Hà Giang cũ) mặc dù đạt được nhiều kết quả nhưng vẫn chưa được như kỳ vọng. Ở một số bản làng vùng cao, vùng đồng bào dân tộc thiểu số thực trạng mù chữ, tái mù chữ vẫn ẩn mình trong ánh mắt trẻ thơ chưa thạo tiếng phổ thông, trong bàn tay người lớn tuổi quên dần con chữ.

Không nói được tiếng Việt, cụ Vần Phỏng Sài và con dâu là chị Giàng Thị Mỷ, thôn Má Chề, xã Sà Phìn gặp nhiều khó khăn khi tiếp cận thông tin, dịch vụ công.
Khi trải nghiệm Làng nghề đan lát Má Chề, xã biên giới Sà Phìn, chúng tôi đến một gia đình nhỏ, cất lời chào thân mật để làm quen, nhưng đáp lại chỉ câu “mo súp chổi” – tiếng Cờ Lao nghĩa là “không biết”. Câu nói ngắn gọn ấy khiến không gian như chùng xuống. Qua lời phiên dịch của Trưởng thôn Vần Mí Sá, chúng tôi mới hiểu, cụ Vần Phỏng Sài ngoài 90 tuổi và con dâu là chị Giàng Thị Mỷ – thế hệ 8X “chưa bao giờ gặp cô giáo, nên chẳng biết nói tiếng Việt đâu”.
Câu chuyện của cụ Sài, chị Mỷ không phải ngoại lệ nơi biên viễn. Mỗi khi người đối diện dùng tiếng Việt để giao tiếp, câu trả lời thường trực của Vừ Thị Si, thôn Lùng Thúng, xã Sơn Vĩ là “chi pâu” – tiếng Mông cũng có nghĩa là “không biết”.

“Câu chuyện đời Si hiện ra như một lát cắt buồn nhưng không hề hiếm gặp. Tuổi 17, Si trở thành cô dâu. Nay, ở tuổi 24, em đã là mẹ của 4 đứa con thơ. Si chưa từng một ngày đến lớp, không biết đọc, không hiểu tiếng phổ thông” - Thầy giáo Vũ Minh Đức, Trường Phổ thông Dân tộc bán trú Tiểu học Thượng Phùng, xã Sơn Vĩ chia sẻ.
Không chỉ những người chưa từng đi học mới gặp khó. Trường hợp của chị Vừ Thị Chở (sinh năm 1978), thôn Ma Xí B, xã Lũng Cú là một khoảng trời tiếc nuối. Qua phiên dịch của cô con gái Ly Thị Mỷ, chúng tôi được biết chị Chở từng được đến lớp, nhưng vì quan niệm của bố mẹ: “Đi học cũng ăn cơm, không đi học cũng ăn cơm”, chị đã bỏ học giữa chừng. Chữ nghĩa năm xưa thầy cô dạy cứ thế nhạt dần theo cuộc mưu sinh. Để giờ đây, chị Chở không thể giao tiếp bằng bất kỳ ngôn ngữ nào khác ngoài tiếng Mông truyền thống.
Theo thống kê của Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Tuyên Quang: Tỷ lệ biết chữ trong nhóm tuổi 15-25 tuổi đạt gần 99%, song ở nhóm 15-60 tuổi chỉ còn khoảng 88% ở mức độ 2, nghĩa là vẫn còn một bộ phận người dân vùng cao mù hoặc tái mù chữ. Con số ấy chỉ chiếm 12% trên biểu đồ, nhưng đằng sau là cả một khoảng trống tri thức. Bởi khi chữ nghĩa bị bào mòn, cánh cửa tiếp cận tri thức, pháp luật, công nghệ dần thu hẹp, khiến họ chịu phải chịu bao thiệt thòi.

Rào cản ngôn ngữ khiến nhiều người dân nơi rẻo cao Tuyên Quang ít có cơ hội tham gia góp ý, bày tỏ nguyện vọng với đại biểu HĐND.


Đồng chí Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch HĐND xã Sơn Vĩ Nguyễn Huy Sắc chia sẻ, thực tế, những con số về tỷ lệ mù chữ, tái mù chữ, những câu chuyện người dân tộc thiểu số không nói được tiếng Việt, không hiểu luật, không tiếp cận được thủ tục hành chính… không chỉ phản ánh khoảng cách giáo dục, mà còn phơi bày khoảng trống của dân chủ ở cơ sở. Khi dân không hiểu tiếng phổ thông, không biết chữ, họ không thể đọc nghị quyết, không thể phản hồi chính sách, không thể tự bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình.

Mọi thủ tục hành chính, giấy tờ quan trọng của bà Hồ Seo Mẩy, xã Sơn Vĩ đều phải nhờ cán bộ chắp bút và kết thúc bằng một dấu điểm chỉ của bà.
Ở tuổi gần 70 nhưng bà Hồ Seo Mẩy, người Lô Lô, xã biên giới Sơn Vĩ chưa từng một lần biết đến tiếng phổ thông. Đến tận bây giờ, mọi thủ tục hành chính, giấy tờ quan trọng, đều phải nhờ cán bộ chắp bút và kết thúc bằng một dấu điểm chỉ lạnh lùng của chính bà. Không riêng bà Mẩy, ở thôn Khai Hoang 3 – nơi có 54 hộ với 100% đồng bào Mông sinh sống nhưng chỉ khoảng 20% người dân biết ký tên, còn lại vẫn phải điểm chỉ.
Trung bình mỗi ngày, xã Sơn Vĩ giải quyết 50 thủ tục hành chính cho người dân, nhưng có tới 90% hồ sơ buộc phải “đóng dấu” bằng dấu vân tay.Không chỉ riêng thôn Khai Hoang, tại thôn Nà Màu, xã Thanh Thủy, câu chuyện điểm chỉ vẫn là nỗi day dứt chưa nguôi trong ký ức của nhiều người. Toàn thôn có 77 hộ với 402 nhân khẩu, 100% là đồng bào Dao.


Buổi chiều cuối tuần, phòng họp nhỏ của thôn biên giới Khấu Xỉn (xã Pà Vầy Sủ) đông đủ người dân đến dự họp. Bí thư Chi bộ Vàng Chẩn Sơn (37 tuổi) kiên nhẫn đọc từng dòng kế hoạch xây dựng nhà văn hóa thôn, chậm rãi phiên dịch sang tiếng Mông cho dễ hiểu. “Có ai có ý kiến gì không?”, Bí thư Vàng Chẩn Sơn hỏi. Cả phòng đồng thanh “nhất trí”. “Thế nhưng khi ra về, một người dân khẽ kéo áo tôi, hỏi nhỏ: “Làm nhà văn hóa, mình phải góp bao nhiêu tiền?”. Câu hỏi khiến tôi sững lại, hóa ra người dân không hiểu mình vừa đồng thuận điều gì”, Bí thư Chi bộ Vàng Chẩn Sơn nhớ lại.
Thôn biên giới Khấu Xỉn có 79 hộ, 100% là đồng bào Mông, trong đó 63,3% là hộ nghèo. Nhiều người không biết chữ, nói tiếng phổ thông chưa sõi; đi họp thôn chỉ để “có mặt cho đủ”. Không ít cuộc họp, quyết sách được thông qua trong im lặng mà “ý dân” vẫn là khoảng trống chưa được lấp đầy.

Thực tế tại thôn biên giới Cóc Rọc, xã Thàng Tín là một minh chứng không thể rõ ràng hơn. Với 20% dân số mù chữ và 25% không thạo tiếng phổ thông, các nghị quyết HĐND hay chủ trương của Đảng dù được phổ biến nhưng rất khó "thấm". Như Bí thư chi bộ Lù Văn Đức chia sẻ, các cuộc họp trước đây thường là một chiều, cán bộ phải "phiên dịch" lại từng khái niệm căn bản của dân chủ như "giám sát" hay "quyền chất vấn".
Trong bối cảnh đó, các buổi tiếp xúc cử tri của HĐND dễ rơi vào hình thức. Cử tri im lặng không phải vì họ đồng thuận, mà vì họ thiếu "vũ khí" là ngôn ngữ và tri thức để biến những trăn trở thành kiến nghị, biến thắc mắc thành chất vấn.

Tuyên Quang là địa phương duy nhất của cả nước có đường biên giới tiếp giáp hai tỉnh Vân Nam và Quảng Tây (Trung Quốc) với 17 xã và 122 thôn giáp biên, tổng chiều dài hơn 277 km. Chính tại đây, khoảng trống về tri thức và nhận thức pháp luật đã trở thành mảnh đất màu mỡ để tội phạm lợi dụng.

Từ năm 2024 đến nay, cơ quan chức năng đã khởi tố 15 vụ với 39 bị can về tội tổ chức xuất cảnh/trốn đi nước ngoài. Đây là tội danh nghiêm trọng, không chỉ xâm phạm trật tự quản lý hành chính mà còn trực tiếp đe dọa an ninh biên giới.
Theo nhận định của cơ quan chức năng, nhiều trường hợp cố tình tổ chức xuất cảnh/trốn đi nước ngoài nhưng không ít người dân vì thiếu hiểu biết, nhẹ dạ trước đồng tiền đã bị các đường dây tội phạm xuyên biên giới lợi dụng làm người dẫn đường, vận chuyển, thậm chí tiếp tay cho hành vi vi phạm pháp luật mà không ý thức hết hậu quả.

Lực lượng Bộ đội Biên phòng tỉnh Tuyên Quang đã đấu tranh, triệt phá nhiều chuyên án, bóc gỡ các đường dây tổ chức cho người xuất cảnh trái phép qua biên giới.
Còn câu chuyện của chị Vừ Thị Hờ, xã Yên Minh đã chứng minh một sự thật đau lòng về hệ lụy của thiếu hiểu biết pháp luật. Năm 2016, vì nhẹ dạ, cả tin, thiếu hiểu biết, chị Hờ bị lừa bán sang Trung Quốc. Khi trở về, bi kịch tiếp diễn. Con trai chị ra đời với yếu tố nước ngoài và không có giấy tờ tùy thân; trong khi đó, chị Hờ không nói được tiếng phổ thông, không am hiểu pháp luật và hoàn toàn bị động trong việc làm thủ tục khai sinh cho con.
Đến tận cuối năm 2024, khi có hướng dẫn của Bộ Tư pháp và cơ quan chuyên môn, bé trai mới được công nhận là công dân. Như vậy, suốt 8 năm ròng, đứa trẻ bị tước đoạt một cách vô lý các quyền lợi cơ bản về y tế và giáo dục chỉ vì sự thiếu kiến thức nền tảng của người mẹ…
Trên miền biên cương cực Bắc, chuyện phụ nữ bị mua bán, mang thai hoặc bế con nhỏ trở về từ bên kia biên giới không còn hiếm gặp. Chỉ trong vài tháng cuối năm 2024, Sở Tư pháp Hà Giang (cũ) đã phải khẩn cấp hỗ trợ khai sinh cho 6 trường hợp trẻ có yếu tố nước ngoài. Thực tế ấy phản ánh một vòng luẩn quẩn đau lòng: Mù chữ, mù luật khiến nhiều phụ nữ trở thành mục tiêu dễ bị tổn thương và đứa trẻ phải gánh chịu thiệt thòi ngay từ khi cất tiếng khóc chào đời.

Toàn tỉnh vẫn còn gần 200 thôn bản “hai không” – không sóng di động, không điện lưới quốc gia.
Là tỉnh miền núi, biên giới, Tuyên Quang đang đứng trước một thách thức mới trong kỷ nguyên số: khoảng cách không chỉ nằm ở địa hình mà còn ở khả năng tiếp cận tri thức và công nghệ. Theo thống kê, toàn tỉnh vẫn còn 183 thôn lõm sóng, trong đó 19 thôn chưa có cả điện lưới và sóng di động; 164 thôn khác tuy đã có điện nhưng vẫn “trắng” thông tin.
Cùng với đó, một số vùng đồng bào dân tộc thiểu số, điện thoại thông minh chủ yếu dùng để nghe, gọi, giải trí – chứ chưa trở thành công cụ thực hành quyền công dân, quyền cử tri trong thời đại số. Thực trạng ấy không chỉ là vấn đề hạ tầng, mà còn là lời nhắc về trách nhiệm chung trong việc bảo đảm quyền được kết nối, được học hỏi và được tham gia của mỗi người dân.

Hiện nay, toàn tỉnh có 84 đại biểu HĐND tỉnh và hơn 6.600 đại biểu HĐND cấp xã. Tại nhiều địa bàn vùng sâu, vùng xa, nơi phần lớn đại biểu HĐND là người dân tộc thiểu số, đời sống còn nhiều khó khăn, việc tiếp cận thông tin và học tập nâng cao trình độ chưa thường xuyên, dẫn đến hoạt động của đại biểu ở một số nơi còn thụ động.
Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch HĐND xã Sà Phìn Đỗ Quốc Hương thẳng thắn chia sẻ: “Do điều kiện kinh tế - xã hội hạn chế, đại biểu khó có cơ hội trau dồi kỹ năng, thiếu chủ động trong thảo luận và giám sát, nhất là những vấn đề chuyên môn như ngân sách hay xây dựng cơ bản”. Thực tế ấy không chỉ là câu chuyện đơn lẻ của một xã vùng biên, mà phản chiếu tình trạng phổ biến ở nhiều địa phương – nơi khoảng cách tri thức vẫn còn là rào cản lớn nhất trên con đường thực hành dân chủ.

Thông qua tiếp xúc cử tri cho thấy, chất lượng một bộ phận đại biểu dân cử chưa tương xứng với kỳ vọng của cử tri.
Theo Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch HĐND xã Lùng Tám Hà Văn Chung, dù chất lượng đại biểu nhiệm kỳ 2021–2026 được nâng lên, “song năng lực phản biện, tinh thần thảo luận và chất vấn ở một bộ phận đại biểu vẫn chưa cao”. Nhiều đại biểu kiêm nhiệm nhiều chức vụ, thời gian nghiên cứu tài liệu, chuẩn bị nội dung giám sát còn ít. Không ít người còn nể nang, ngại va chạm. Vì vậy, chất lượng giám sát và phản biện chính sách chưa tương xứng với kỳ vọng của cử tri.
Ở một khía cạnh khác, đại biểu HĐND xã Bằng Hành Nguyễn Bá Tuấn chỉ rõ: Việc lựa chọn, giới thiệu người ứng cử làm đại biểu HĐND xã còn mang nặng cơ cấu, dẫn đến chất lượng đại biểu có nơi còn hạn chế. Nhiều đại biểu hạn chế về năng lực, chưa nắm vững về các vấn đề quốc kế dân sinh để bày tỏ chính kiến của mình tham gia vào việc xây dựng nghị quyết, hoạt động chất vấn, giám sát chuyên đề và giám sát thường xuyên. Mặt khác, trong cơ cấu đại biểu chưa được chú trọng đến thành phần đại biểu là người có chuyên môn sâu, hiểu biết pháp luật.
Đáng buồn hơn, một số đại biểu dân cử đã quên lời thề phụng sự, đi ngược lại lợi ích của Nhân dân, để rồi vướng vào vòng lao lý và buộc phải cho thôi làm nhiệm vụ đại biểu HĐND. Đây là một hồi chuông cảnh tỉnh đanh thép, đòi hỏi người đại biểu không chỉ cần bản lĩnh chính trị vững vàng, sự am hiểu luật pháp mà còn phải giữ trọn sự liêm chính, xem liêm chính là “chiếc đèn pha” soi rõ con đường phụng sự.
Từ tinh thần Quốc dân Đại hội Tân Trào đến hôm nay, việc nâng cao dân trí vẫn là thước đo sống còn của một nền dân chủ vững mạnh. Tuy vậy, ở một số nơi, năng lực của đại biểu dân cử vẫn chưa đáp ứng kỳ vọng của cử tri, đặc biệt trong việc tiếp cận công nghệ, nắm bắt thông tin và phản ánh đầy đủ tiếng nói của nhân dân trong không gian số.
Khoảng trống ấy càng cho thấy yêu cầu cấp thiết phải song hành giữa nâng cao dân trí gắn với nâng cao năng lực của đại biểu dân cử, để tiếng nói cử tri đến với nghị trường, để quyền dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra được hiện thực ngày càng nhiều trong đời sống.
Nhóm tác giả: Mai Thông, Chúc Huyền, Biện Luân, Thu Phương,
Giang Lam, Hoàng Hà, Lê Duy - Thiết kế: Nguyễn Luyến
Kỳ 2: Khai dân trí – Vững nền dân chủ ở cơ sở
Kỳ cuối: Niềm tin cử tri, hành động của đại biểu












