KỲ 2: 96 năm vững bước – vươn mình cùng thời đại

Sau gần một thế kỷ hình thành và trưởng thành, ngành cao su Việt Nam đã đi qua hai cuộc kháng chiến, vượt muôn vàn thử thách để hôm nay vươn mình ra khu vực và thế giới – trở thành một trong những trụ cột kinh tế của đất nước

Trong khói lửa chiến tranh – tái sinh và xây dựng

Sau khi Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, các đồn điền cao su nhanh chóng trở thành căn cứ kháng chiến. Khi thực dân Pháp quay trở lại, công nhân cao su không chỉ đấu tranh giành quyền sống mà còn trực tiếp tham gia kháng chiến.

Họ lập “Mặt trận cao su chiến”, phát động phong trào đốt mủ, phá cây, cắt đường tiếp tế của địch, nuôi giấu cán bộ cách mạng. Năm 1949, Đại hội Liên đoàn Cao su Nam Bộ lần thứ nhất diễn ra tại An Điền (Bến Cát, Thủ Dầu Một), đánh dấu bước trưởng thành của phong trào công nhân. Hàng nghìn thanh niên từ các đồn điền đã lên đường gia nhập Vệ quốc đoàn, trở thành lực lượng nòng cốt trong cuộc kháng chiến chống Pháp.

Trong khói lửa chiến tranh – tái sinh và xây dựng

Sau khi Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, các đồn điền cao su nhanh chóng trở thành căn cứ kháng chiến. Khi thực dân Pháp quay trở lại, công nhân cao su không chỉ đấu tranh giành quyền sống mà còn trực tiếp tham gia kháng chiến.

Họ lập “Mặt trận cao su chiến”, phát động phong trào đốt mủ, phá cây, cắt đường tiếp tế của địch, nuôi giấu cán bộ cách mạng. Năm 1949, Đại hội Liên đoàn Cao su Nam Bộ lần thứ nhất diễn ra tại An Điền (Bến Cát, Thủ Dầu Một), đánh dấu bước trưởng thành của phong trào công nhân. Hàng nghìn thanh niên từ các đồn điền đã lên đường gia nhập Vệ quốc đoàn, trở thành lực lượng nòng cốt trong cuộc kháng chiến chống Pháp.

Trong kháng chiến chống Mỹ, công nhân cao su tiếp tục kiên cường bám vườn cây giữa bom đạn ác liệt. Họ vừa sản xuất, vừa nuôi giấu cán bộ, vừa tham gia chiến đấu tại Dầu Tiếng, Phước Long, Lộc Ninh… Những vườn cây cao su đã trở thành “chiến khu xanh”, góp phần không nhỏ vào thắng lợi mùa xuân 1975, khi đất nước hoàn toàn thống nhất.

Sau ngày đất nước giải phóng, ngành cao su Việt Nam chỉ còn lại khoảng 42.000 ha vườn cây, phần lớn đã bị tàn phá nặng nề. Công nhân trở lại đồn điền, vừa rà phá bom mìn, vừa dựng lại vườn cây. Đến năm 1976, diện tích khai thác đạt 25.000 ha, sản lượng 36.590 tấn mủ. Một năm sau, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định 52-CP thành lập Tổng công ty Cao su trực thuộc Bộ Nông nghiệp – tiền thân của ngành ngày nay. Với tinh thần “Gà mẹ đẻ gà con”, các công ty cao su miền Đông Nam Bộ hỗ trợ mở rộng trồng mới ở Tây Nguyên, Duyên hải miền Trung. Đến năm 1980, diện tích đã tăng lên 77.000 ha, sản lượng hơn 198.000 tấn và bắt đầu xuất khẩu sang Liên Xô, Đông Âu.

Giai đoạn 1981–1985, ngành cao su được xác định là ngành kinh tế mũi nhọn, tập trung thâm canh, áp dụng tiến bộ kỹ thuật, đào tạo công nhân lành nghề, xây dựng khu nhà ở, trường học, bệnh xá cho người lao động. Những vùng kinh tế mới hình thành, thay đổi diện mạo nông thôn ở Đông Nam Bộ và Tây Nguyên.

Thực hiện đường lối Đổi mới (1986), ngành cao su bước sang giai đoạn tự chủ sản xuất kinh doanh. Năm 1989, Tổng công ty Cao su Việt Nam được thành lập; đến năm 1995, được củng cố lại theo Quyết định 525-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Diện tích vườn cây đạt hơn 220.000 ha, sản lượng 118.000 tấn/năm, năng suất bình quân 847 kg/ha. Ngành cao su không chỉ góp phần quan trọng vào kim ngạch xuất khẩu mà còn tạo việc làm, ổn định đời sống cho hàng vạn hộ gia đình, góp phần bảo đảm an sinh xã hội và an ninh quốc phòng vùng sâu, vùng xa.

Vươn mình trong thời kỳ Đổi mới

Bước sang thế kỷ XXI, trước làn sóng toàn cầu hóa, ngày 30/10/2006, Thủ tướng Chính phủ ký quyết định thành lập Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam (VRG) – đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong quá trình phát triển của ngành. VRG nhanh chóng tái cấu trúc hệ thống, đa dạng hóa sản phẩm, đầu tư mở rộng vùng trồng ra miền núi phía Bắc – nơi trước đây được xem là “vùng trắng” về cây công nghiệp dài ngày. Tại đây, 9 công ty cao su được thành lập, quản lý hơn 28.700 ha, tạo việc làm cho hơn 5.000 lao động, 90–95% là đồng bào dân tộc thiểu số. Đến nay, khu vực này đã trở thành vùng kinh tế đặc thù, góp phần phát triển hạ tầng, nâng cao đời sống người dân.

Không dừng lại trong nước, VRG còn vươn ra khu vực với 6 công ty và 7 dự án tại Lào, 16 công ty tại Campuchia, tổng diện tích gần 115.000 ha. Các dự án đã mang lại hiệu quả kinh tế, xã hội rõ nét, góp phần xây dựng cơ sở hạ tầng, trường học, bệnh viện, đồng thời tô thắm tình hữu nghị giữa Việt Nam – Lào – Campuchia. Trong chuyến thăm Việt Nam năm 2023, Thủ tướng Campuchia Hun Manet đã đánh giá VRG là biểu tượng hợp tác kinh tế – hữu nghị bền chặt giữa hai dân tộc.

Ngày 22/5/2018, VRG tổ chức Đại hội cổ đông lần thứ nhất, chính thức hoạt động theo mô hình công ty cổ phần với vốn điều lệ 40.000 tỷ đồng. Tính đến nay, Tập đoàn quản lý 115 công ty (99 công ty con, 16 công ty liên kết), với tổng diện tích hơn 397.000 ha tại Việt Nam, Lào và Campuchia, tạo việc làm ổn định cho hơn 84.800 người.

Bước vào kỷ nguyên chuyển đổi số và phát triển xanh, VRG xác định 5 trụ cột chiến lược gồm khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, tăng trưởng xanh và phát triển bền vững. Mục tiêu đến năm 2030, doanh thu toàn Tập đoàn vượt 200.000 tỷ đồng, thu nhập người lao động tăng ít nhất 30% so với năm 2025.

Trải qua 96 năm xây dựng và trưởng thành, ngành cao su Việt Nam đã được Đảng, Nhà nước ghi nhận bằng nhiều phần thưởng cao quý như Huân chương Sao Vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Lao động hạng Nhất… cùng hàng nghìn danh hiệu Anh hùng Lao động và Bà mẹ Việt Nam Anh hùng – biểu tượng cho một ngành kinh tế kiên cường, gắn bó máu thịt với lịch sử dân tộc.

Từ ngọn lửa Phú Riềng Đỏ năm nào, hôm nay Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam tiếp tục vững bước trong hành trình hội nhập, khẳng định vai trò doanh nghiệp đầu tàu trong phát triển bền vững, trách nhiệm xã hội và khát vọng dựng xây đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

VRG hiện tập trung vào 6 lĩnh vực kinh doanh trụ cột:Trồng, chăm sóc, khai thác, chế biến và kinh doanh mủ cao su; Khai thác, chế biến và sản xuất các sản phẩm gỗ cao su (18 nhà máy, công suất 1,2 triệu m³/năm, chiếm 50% nhu cầu MDF trong nước); Sản xuất sản phẩm công nghiệp cao su (lốp xe VRG, nệm, gối, bóng thể thao, găng tay, dây chuyền băng tải…); Phát triển hạ tầng khu công nghiệp: 14 khu đang hoạt động, 4 dự án mới chuẩn bị triển khai, nâng tổng quy mô lên 5.800 ha; Nông nghiệp công nghệ cao: 11 đơn vị, diện tích 1.687 ha chuyển đổi trồng trọt theo mô hình ứng dụng công nghệ tiên tiến; Năng lượng tái tạo: 12 công ty triển khai điện mặt trời áp mái (công suất 13.883 kWp, giảm phát thải 7.400 tấn CO₂), cùng 3 dự án lớn trong Quy hoạch điện VIII.

Nguyễn Dũng

Nguồn Tiền Phong: https://tienphong.vn/ky-2-96-nam-vung-buoc-vuon-minh-cung-thoi-dai-post1788830.tpo