Kỳ diệu sau điện mật 'chúng tôi chiến đấu hết đạn, xin vĩnh biệt các đồng chí'

Điều kỳ diệu đã xảy ra sau bức điện mật: 'Một sư đoàn địch đang vây hãm đồn. Chúng tôi đã chiến đấu hết đạn. Xin vĩnh biệt các đồng chí'.

Kỳ 1: Điều kỳ diệu sau điện mật 'chúng tôi đã chiến đấu hết đạn, xin vĩnh biệt các đồng chí'

Kỳ 2: Chúng tôi đã chiến đấu hết đạn: Sau bức điện, đường máu phá vòng vây địch mở ra

Những ngày cuối tháng 2, trong tiết xuân se lạnh, chúng tôi ghé thăm gia đình cựu chiến binh, Anh hùng LLVTND, Thượng tá Lê Khắc Xuân (SN 1953, thôn 1, xã Thiệu Vận, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa).

Năm nay, vị Anh hùng ngày ấy tuổi đã gần 70, nhưng vẫn còn khá minh mẫn. Di chứng của chiến tranh khiến sức khỏe của ông giảm sút khá nhiều.

Tuy nhiên, ánh mắt người cựu binh rực sáng khi nhớ lại những ký ức hào hùng về trận chiến ở đồn biên giới Pha Long (Mường Khương, Lào Cai). 42 năm trôi qua, chưa bao giờ ông quên được những hình ảnh về trận chiến khốc liệt ấy. Trận đánh với điều kỳ diệu xảy ra sau bức điện cuối cùng như lời vĩnh biệt: “Một sư đoàn địch đang vây hãm đồn. Chúng tôi đã chiến đấu hết đạn. Xin vĩnh biệt các đồng chí”.

“Cho đến tận bây giờ, tôi không thể tin mình vẫn còn sống. Thậm chí, cả khi ngủ, ký ức về trận đánh đẫm máu ấy đôi lúc lại ùa về”, vị Anh hùng mắt ngấn lệ mỗi nhắc về trận đánh lịch sử.

Ngày 17/2/1979, hàng chục vạn quân Trung Quốc đồng loạt tràn qua biên giới Việt Nam, tấn công nhiều mục tiêu trên toàn tuyến biên giới phía Bắc nhằm nhanh chóng đánh chiếm một số thị xã, chặn đường tiếp tế của Việt Nam từ phía sau lên.

Hướng tấn công chủ yếu của quân địch là Lạng Sơn, Cao Bằng. Hướng quan trọng là Lào Cai. Hướng phối hợp là Phong Thổ, Lai Châu. Hướng nghi binh để thu hút lực lượng của Việt Nam là Hà Tuyên và Quảng Ninh.

Cách đánh chủ yếu của Trung Quốc là sử dụng lực lượng áp đảo, bất ngờ tấn công đồng loạt, tập trung vào hướng chính diện kết hợp với vu hồi, thọc sâu, bao vây, chia cắt lực lượng ta, đặc biệt là sử dụng pháo binh gây sát thương lớn cho bộ đội và người dân.

Huyết chiến ở đồn biên giới Pha Long bắt đầu...

Ngày 17/2/1979, hai trung đoàn bộ binh Trung Quốc với hỏa lực lớn bất ngờ nổ súng tấn công Trạm biên phòng Lồ Cố Chin (Lào Cai). Trước sự tấn công bất ngờ của quân địch, 7 chiến sĩ của trạm đã chiến đấu kiên cường, 4 chiến sĩ hy sinh, số còn lại nhanh chóng rút về Đồn Pha Long cùng đơn vị chiến đấu.

Khi tấn công sang khu vực Pha Long, địch triển khai chiến thuật cắt rời mảnh đất hình tam giác Pha Long ra khỏi thế trận liên hoàn của tỉnh.

Hai tiểu đoàn sơn cước vượt sông Xanh từ phía Đông tràn qua xã Dìn Chin đánh chiếm dãy đồi Ba cây thông ở ngoại vi phía nam Đồn, cắt đứt con đường dài 20km từ Pha Long đi Mường Khương, 2 tiểu đoàn bộ binh khác vượt mốc 16 ở phía tây chiếm lĩnh cao điểm Lao Táo.

Cùng lúc, ở hướng Bắc địch đánh vào trạm biên phòng Lồ Cố Chin cạnh mốc 21 là chốt cửa khẩu cách Đồn Pha Long 5km làm cho Đồn Pha Long rơi vào thế cô lập.

Lúc bấy giờ, đồn trưởng Mai Khánh Thát - Đồn Biên phòng Pha Long (trước kia là Đồn Cảnh sát vũ trang Hoàng Liên Sơn) đang trên đường từ Hà Nội nhận kế hoạch tác chiến trở về.

Lúc này, Thượng úy Trần Ngọc - Chính trị viên ngay lập tức chỉ huy anh em vào trận phòng ngự, đồng thời chốt chặn quanh pháo đài Lê Đình Chinh để cầm chân quân địch, kéo dài thời gian bố trí binh hỏa lực cho cuộc huyết chiến.

Từ ngày 17 đến ngày 20/2/1979, lính Trung Quốc đã tổ chức tấn công 20 lần, với 5 đợt lớn hy vọng đè bẹp sức kháng cự của chiến sĩ ta. Mặc dù thông tin liên lạc bị cắt đứt, vũ khí đạn dược thiếu thốn, lương thực thực phẩm cạn dần, nhưng cán bộ chiến sĩ Đồn Pha Long vẫn động viên nhau kiên quyết đánh địch đến viên đạn cuối cùng.

Có ngày, giữa ta và địch giành giật nhau từng mô đất, từng đoạn giao thông hào. Bộ đội ta dũng cảm chiến đấu, giữ vững trận địa.

“Đó là trận chiến của mưa bom, bão đạn. Quân Trung Quốc với binh, hỏa lực mạnh bao vây ta theo thế lòng chảo. Giữa bốn bề quân địch bao vây, quân ta phòng thủ quanh các hầm hào, lỗ châu mai. Vừa bộ binh, vừa hỏa lực, quân địch bắn phá liên tục suốt 4 ngày đêm”, Anh hùng Lê Khắc Xuân nhớ lại.

Lúc này, ông là chỉ huy, cùng 7 chiến sĩ lên mỏm đồi phía tây pháo đài Lê Đình Chinh, chốt cùng bộ phận cơ động ở đấy, nhằm đánh chặn địch không để chúng tiến xuống đường đi Mường Khương.

Sau khi tấn công bằng bộ binh, Trung Quốc liên tục nã pháo về phía bộ đội ta ở Pha Long.

“Chúng đánh liên tục, mỗi ngày đánh không biết bao nhiêu lần. Mỗi lần đánh, chúng đều bắn pháo báo hiệu trước, rồi đạn bay xối xả như mưa trút về phía ta”, người lính già vẫn nhớ như in từng trận đánh.

Đồn Pha Long trước kia thuộc căn cứ của Pháp. Pháo đài và hầm hào, lỗ châu mai được xây dựng rất an toàn. Tuy nhiên, sau nhiều ngày chiến đấu quyết liệt với quân địch, một số chiến sĩ đã hy sinh. Nhiều vị trí của đồn cũng bị bắn phá tan nát.

9h ngày 18/2/1979, lính Trung Quốc vây hãm Đồn Pha Long (Mường Khương, Lào Cai) và không ngừng kêu gọi chiến sĩ ta đầu hàng. Nhưng, với tinh thần chiến đấu anh dũng, quân ta vẫn bình tĩnh, ngoan cường nổ súng vào quân xâm lược.

Từ phòng cơ yếu, chiến sĩ Nguyễn Duy Mạc liên tục mã điện báo cáo về tỉnh và Bộ Tư lệnh: “Đồn Pha Long bị bao vây, địch đã chiếm hết các chốt của ta. Lực lượng còn lại kiên quyết không rời vị trí chiến đấu, dù còn một người cũng chiến đấu” .

11 giờ 20 ngày 18/2/1979, bộ phận cơ yếu tỉnh bộ Công an Vũ trang Hoàng Liên Sơn cấp tốc truyền ngay mệnh lệnh chiến đấu của Ban chỉ huy tỉnh cho đồn Pha Long và đại đội 3 cơ sở biên phòng: “Đại đội 3 chi viện ngay cho đồn Pha Long để cùng phối hợp chiến đấu. Các đồng chí hãy nêu cao khí phách anh hùng, dù hy sinh cũng phải chiến đấu đến cùng, kiên quyết không đầu hàng địch, không để địch bắt sống”.

Tiếp đó, phòng Cơ yếu cũng mã ngay chỉ thị khẩn cấp của Bộ Tư lệnh cho Trung đoàn 16 cơ động biên phòng: “Điều ngay tiểu đoàn I ở Mường Khương triển khai cùng tác chiến với đồn Pha Long. Cho một đại đội khác tìm đường từ Xi Ma Cai lên Pha Long cùng chiến đấu. Nhận chỉ thị này thực hiện ngay không được chậm”.

Sau khi nhận điện từ Pha Long, chi viện đã được cấp tốc điều động, nhưng do bị vây đánh suốt mấy ngày khiến lương thực và đạn dược cạn dần, thương vong ngày càng nhiều.

Sáng 19/2/1979, quân địch tràn vào ngày một đông, đồn Pha Long đứng trước nguy cơ rơi vào tay giặc.

Trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, 11h ngày 19/2, Thượng úy Trần Ngọc - Chính trị viên đã tập hợp các mũi nhọn, đồng thời chỉ đạo phòng Cơ yếu mã bức điện cuối cùng như lời vĩnh biệt: “Một sư đoàn địch đang vây hãm đồn. Chúng tôi đã chiến đấu hết đạn. Xin vĩnh biệt các đồng chí”.

Nói về bức điện cuối cùng, anh hùng Lê Khắc Xuân ngậm ngùi kể lại: “Khi đó, tôi là một trong số đảng viên được chỉ huy tập hợp nhanh. Sau khi bức điện vĩnh biệt được gửi đi, từ phòng Cơ yếu, Thượng úy Ngọc hạ lệnh phá toàn bộ máy móc thông tin và hủy tài liệu cơ yếu. Sau đó, qua thống nhất, chúng tôi quyết định làm thủ tục chôn cất đồng đội xong xuôi sẽ mở “con đường máu” để rút về hồi cứ ở Suối Thầu”.

Ngay trong đêm 19/2/1979, tranh thủ lúc quân địch nghỉ, các chiến sĩ đồn Pha Long tổ chức chôn cất và an táng cho hàng chục đồng đội rồi vội vã lên đường.

Cho đến tận bây giờ, nỗi đau trong lòng vị Anh hùng đó chính là đêm chôn cất đồng đội. Ông không nhớ đã có bao nhiêu đồng đội nằm lại nơi chiến trường, nhưng đêm 19/2 quả là một đêm kinh hoàng nhất trong cuộc đời ông.

“Có anh em bị bắn suốt mấy ngày trước đó rồi, nhưng trước khi rút chúng tôi phải làm chính sách liệt sĩ cẩn thận. Xong xuôi mới mở đường cùng đưa toàn bộ anh em rút về hồi cứ”, người lính già rưng rưng nước mắt nhớ lại.

Ngày 19/2/1979, địch mở đợt tấn công lớn thứ 5. Một cuộc chiến đấu tầm gần và khủng khiếp nhất diễn ra. Quân địch ầm ầm xông lên. Quân ta lực lượng mỏng nhưng vẫn anh dũng chiến đấu.

“Khi địch tiến sát về đồn, lúc đó gần như đánh giáp lá cà. Cuộc chiến phải nói là 1 chọi 20, 1 chiến sĩ của ta chiến đấu từ 10 - 20 quân địch”, Anh hùng Lê Khắc Xuân nhớ lại.

Ngày 20/2/1979, địch bắn súng cối vào đồn Pha Long suốt 3 giờ. Sau đó, lợi dụng trời tối, chúng tràn vào Đồn. Chiến sĩ ta đánh trả quyết liệt, tiếp tục tiêu diệt gần 100 tên địch, khiến chúng lại phải rút ra.

Theo kế hoạch, Đội phó đội vận động ông Lê Khắc Xuân nhận nhiệm vụ chỉ huy một mũi tấn công để mở đường. Mũi còn lại do Thượng úy Trần Ngọc phụ trách. Cứ như thế, quân ta thực hiện kế hoạch mở đường rút về hồi cứ trong đêm trước sự bao vây tứ bề của quân địch.

Anh hùng Lê Khắc Xuân còn nhớ như in thời khắc trở thành cảm tử quân thăm dò quân địch. Ông được cử ra sân thể dục của đồn chạy liên tục quanh sân để thám thính tình hình. Sau 4 vòng chạy không thấy tiếng súng nổ từ phía quân địch, ông quay về rồi chỉ huy anh em cùng nhau mở đường về hồi cứ.

Trong quá trình rút về hồi cứ ở Suối Thầu, các chiến sĩ Đồn Pha Long đã chiến đấu quyết liệt trong tình thế thiếu thốn đủ bề. Đạn dược cạn kiệt, lương thực, nước uống không còn. Thế nhưng, bằng tinh thần quật cường, họ đã phá vòng vây địch trở về hồi cứ, tiếp tục mở cuộc tấn công đánh tan quân địch.

“Đúng 4 ngày gần như anh em không ăn, chỉ có đánh là đánh. Toàn bộ kho lương, nước uống bị địch tàn phá. Thậm chí, có những lúc nòng súng đỏ rực lửa, chút ít nước còn lại trong bi đông cũng được tận dụng để tưới họng súng”, ông Xuân nhớ lại.

Quãng đường từ đồn về đến hồi cứ xa khoảng 10km đường rừng. Những cuộc chiến giáp lá cà với quân địch liên tục diễn ra.

“Cứ đi đến đâu gặp địch là đánh đến đó. Có những lúc hai họng súng giữa địch và ta chỉ cách nhau chừng vài mét, hai bên giao chiến khốc liệt. Đánh xong, để có vũ khí anh em lại lấy súng đạn của chính quân địch để chiến đấu”, Anh hùng Lê Khắc Xuân giải thích.

Anh hùng Lê Khắc Xuân (thứ hai từ phải qua) trong chuyến công tác tại Liên Xô.

Anh hùng Lê Khắc Xuân (thứ hai từ phải qua) trong chuyến công tác tại Liên Xô.

Quân Trung Quốc lúc bấy giờ đông gấp 10 đến 20 lần quân ta. Khi “mở đường máu”, cứ một chiến sĩ của ta tác chiến với 10 đến 20 quân địch. “Bộ đội ta vũ khí thô sơ nhưng nghiệp vụ chiến đấu thì rất thuần thục, từng chặng đường trải qua là hàng chục binh lính địch bị hạ gục”, ông Xuân khẳng định đầy tự hào.

Xuyên đêm như vậy, cuối cùng đội phó Xuân cùng đồng đội đã ra đến căn cứ ở Suối Thầu. Sau đó, một cuộc phản công đáp trả quân địch diễn ra. Lần lượt các mũi tấn công của ta liên tiếp đánh về địa bàn 6 xã do đồn Pha Long phụ trách, tả xung hữu đột đập tan “biển người” của binh lính Trung Quốc.

Trải qua hơn 30 ngày đêm tấn công, Đồn Pha Long đã lập công xuất sắc, tiêu diệt 740 tên địch, bắn bị thương 57 tên, thu 14 súng CKC, 8 AK, 2 trung liên, 8 hòm lựu đạn, 5 khẩu súng K54, 1 khẩu B40, góp phần cùng quân và dân 6 tỉnh biên giới phía Bắc đập tan cuộc tấn công xâm lược của kẻ thù. Ngày 6/3/1979, quân Trung Quốc buộc phải rút quân về nước.

Những ngày tháng 2 lịch sử, anh hùng Lê Khắc Xuân cũng như đồng đội của mình lại bồi hồi nhớ về đồng đội. Mùa xuân năm nay, do tình hình dịch bệnh COVID-19 phức tạp kèm theo di chứng của chiến tranh để lại, ông chưa có dịp được trở về Pha Long để thăm đồng đội cũ.

Người cựu binh vẫn còn rất đau đớn khi nhớ lại khoảnh khắc đồng đội mình nằm xuống giữa chiến trận nhuốm màu thuốc súng. “Là đồng đội, đồng chí chúng tôi đau lắm. Tôi nhớ nhất thằng Bắc, hai anh em sát cánh cùng nhau, khi nó bị địch bắn gục, tôi chỉ biết cố nén nỗi đau rồi tiếp tục chiến đấu. Mưa đạn bay xối xả, đến vuốt mắt cho nó còn không kịp”, vị lính già vừa kể vừa lấy tay lau nước mắt.

Ông Xuân còn nhớ mãi giây phút thoát chết chỉ trong gang tấc: “Trong lúc chiến đấu, vì quân địch nhiều nên mỗi người tay cầm súng, tay cầm lựu đạn cứ như thế bắn trả về phía địch. Tôi nhớ tay trái vừa mở lựu đạn, tay phải lại đang bắn AK, khi quay lại thấy lựu đạn chưa ném đi, may mà vội vàng tung được nó ra khỏi tay, chứ không giờ này cũng không còn ngồi ở đây rồi”.

Ngồi trước hiên nhà, bà Lê Thị Hà (vợ Anh hùng Lê Khắc Xuân) vẫn còn bồi hồi khi nhắc lại chuyện “em hậu phương, anh tiền tuyến”.

Bà nghẹn ngào tâm sự: “Tháng 2 năm ấy, tôi cũng như bao người phụ nữ khác như ngồi trên đống lửa. Nơi hậu phương, tiếng phát thanh viên của Đài Tiếng nói Việt Nam không ngừng phát đi thông tin về tình hình lửa trận ở Pha Long. Tôi nghĩ, người chồng yêu thương của mình chẳng biết giờ này thế nào. Mỗi lần tiếng đài phát lên, không chỉ tôi mà cả đất nước chìm trong nước mắt”.

Thời gian trôi qua, mỗi dịp tháng 2 về, bà lại cùng chồng nhớ lại một thời quá khứ: “Chúng tôi cưới nhau năm 1973, từ năm 1975 đến năm 1978 ông ấy bặt vô âm tín. Năm 1979, ông ấy được nghỉ phép một lần về chịu tang bố rồi đi biền biệt không tin tức. Ngày trận Pha Long nổ ra, tôi nghĩ ông ấy hy sinh rồi. Mãi đến sau này, khi trận chiến kết thúc, có cậu bạn cùng làng gửi về mảnh báo có in hình ông ấy, khi đó tôi mới biết chiến thắng đã đến, chồng mình vẫn còn sống”.

“Lúc đó chỉ biết đánh là đánh, đến thời gian ăn còn không có thì huống gì thư từ về cho vợ. Sau phép nghỉ được đúng 1 tuần thì trận chiến diễn ra. Nói thật, đến tôi cũng không nghĩ mình trở về như ngày hôm nay”, Anh hùng Xuân đáp lời vợ.

Đến đây, cuộc trò chuyện của tôi với vị anh hùng vũ trang Lê Khắc Xuân bị gián đoạn vì cơn đau đầu của ông bỗng nhiên tái phát. Vợ ông cáo lỗi với tôi và đưa ông đi nghỉ.

Bia trấn ải ở Pha Long (Mường Khương, Lào Cai). (Ảnh: Thanh Tùng)

Bia trấn ải ở Pha Long (Mường Khương, Lào Cai). (Ảnh: Thanh Tùng)

Chiến tranh không chỉ để lại nỗi đau về thể xác mà còn để lại những day dứt khôn nguôi của tình đồng chí, đồng đội. Chứng kiến cơn đau đầu hành hạ người cựu binh già, tôi không khỏi ngậm ngùi.

42 năm sau cuộc chiến chống quân Trung Quốc xâm lược, trước cửa Đồn Biên phòng Pha Long sừng sững tấm bia trấn ải với dòng chữ:

“Nguyên Thần Bổn Mệnh giữ núi non.

Nam Sơn bốn cõi tựa sách trời định.

Thiên thiên nhật nguyệt linh linh ứng.

Tuyệt tuyệt long phụng báo quốc an.

Bình nhất hà Việt Nam Quốc thổ”

(Tạm dịch nghĩa:

Nguyên Thần được giao sứ mệnh giữ núi non. Núi nam bốn cõi đã quy định trong sách trời. Nghìn nghìn mặt trời, mặt trăng linh thiêng và ứng nghiệm. Rồng phượng tuyệt vời bảo vệ an nguy Tổ quốc. Đất Việt Nam yên bình nhất là ở đây).

Bên kia cổng là đài tưởng niệm, ghi tên 41 người lính Biên phòng hy sinh tại Pha Long, trong đó có 27 liệt sĩ ngã xuống thời điểm tháng 2/1979, khi đánh trả quân Trung Quốc xâm lược, nhắc nhớ cuộc chiến khốc liệt chống quân thù.

Pha Long là xã biên giới thuộc huyện Mường Khương (tỉnh Lào Cai). Trong cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc, Pha Long là một trong những địa điểm diễn ra những trận chiến ác liệt giữa quân ta và Trung Quốc.

Đồn Biên phòng Pha Long (trước năm 1979 có tên là Đồn Cảnh sát Vũ trang Pha Long) đã hai lần được trao tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND.

Hiện đồn quản lý 16,3 km đường biên giới thuộc hai xã Pha Long và Tả Ngải Chồ có địa hình hiểm trở, đi lại khó khăn. Trong những năm qua, các chiến sĩ đồn biên phòng Pha Long đã hoàn thành tốt công tác tuần tra, kiểm soát, đảm bảo an ninh, hòa bình hữu nghị và gìn giữ bình yên nơi miền biên viễn.

Nhóm PV (Đồ họa: Đào Hiếu)

Nguồn VTC: https://vtc.vn/ky-dieu-sau-dien-mat-chung-toi-chien-dau-het-dan-xin-vinh-biet-cac-dong-chi-ar598941.html