Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV: Quốc hội thông qua 6 Nghị quyết quan trọng
Sáng 27/6, với 446/447 đại biểu tham gia biểu quyết tán thành (93,31% tổng số đại biểu Quốc hội), Quốc hội biểu quyết thông qua Nghị quyết của Quốc hội về chủ trương đầu tư Dự án đầu tư xây dựng đường bộ cao tốc Quy Nhơn - Pleiku.

Quốc hội biểu quyết thông qua Nghị quyết của Quốc hội về chủ trương đầu tư Dự án đầu tư xây dựng đường bộ cao tốc Quy Nhơn - Pleiku. Ảnh: Doãn Tấn/TTXVN
Theo đó, Nghị quyết nhằm mục tiêu xây dựng tuyến đường bộ cao tốc Quy Nhơn - Pleiku hiện đại, đồng bộ nhằm đáp ứng nhu cầu vận tải, tạo động lực quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Nguyên, khu vực duyên hải Trung bộ; kết nối các cửa khẩu quốc tế, các đô thị và cảng biển lớn, Tây Nguyên với khu vực duyên hải Nam Trung Bộ, các hành lang Đông - Tây và các nước trong khu vực, gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh và hội nhập quốc tế, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, thúc đẩy tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, góp phần hiện thực hóa mục tiêu, nhiệm vụ theo Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII và các Nghị quyết của Đảng.
Dự án đầu tư xây dựng đường bộ cao tốc Quy Nhơn - Pleiku khoảng 125 km, chia thành 3 dự án thành phần. Sơ bộ tổng mức đầu tư của Dự án khoảng 43.734 tỷ đồng. Nguồn vốn ngân sách nhà nước bố trí từ nguồn tăng thu, tiết kiệm chi ngân sách nhà nước năm 2024, nguồn ngân sách trung ương và địa phương giai đoạn 2021 - 2025 và giai đoạn 2026 - 2030.
Việc chuẩn bị đầu tư, thực hiện Dự án từ năm 2025, hoàn thành đưa vào khai thác trong năm 2029.
Cũng trong sáng nay, với 437/441 đại biểu tham gia biểu quyết tán thành (91,42% tổng số đại biểu Quốc hội), Quốc hội thông qua Nghị quyết của Quốc hội về chủ trương đầu tư Dự án đầu tư xây dựng đường vành đai 4 Thành phố Hồ Chí Minh.
Nghị quyết nhằm xây dựng trục giao thông chiến lược kết nối vùng Đông Nam Bộ với Tây Nam Bộ và Tây Nguyên, thúc đẩy lưu thông hàng hóa từ các khu công nghiệp, khu đô thị đến các cảng biển, cảng hàng không và ngược lại; kết nối các đô thị, khu công nghiệp trong vùng, tạo liên kết vùng, phát triển kinh tế - xã hội vùng kinh tế trọng điểm phía Nam; giảm áp lực giao thông cho khu vực trung tâm đô thị; tạo không gian phát triển mới để khai thác tiềm năng nguồn lực đất đai và tận dụng các khu vực có điều kiện thuận lợi cho phát triển đô thị, góp phần điều tiết dân số khu vực nội đô; thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh theo Nghị quyết của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII và các nghị quyết của Đảng.
Theo đó, đầu tư khoảng 159,31 km, chia thành 10 dự án thành phần. Sơ bộ tổng mức đầu tư của Dự án khoảng 120.413 tỷ đồng, bao gồm: Nguồn vốn ngân sách trung ương khoảng 29.688 tỷ đồng; nguồn vốn ngân sách địa phương khoảng 40.093 tỷ đồng; vốn do nhà đầu tư huy động khoảng 50.632 tỷ đồng.
Các dự án thành phần đầu tư theo phương thức đối tác công tư, loại hợp đồng Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao (BOT) được áp dụng cơ chế bảo đảm đầu tư, cơ chế chia sẻ phần tăng, giảm doanh thu theo quy định của pháp luật về đầu tư theo phương thức đối tác công tư.
Với 437/441 đại biểu tham gia biểu quyết tán thành (91,42% tổng số đại biểu Quốc hội), Quốc hội biểu quyết thông qua Nghị quyết của Quốc hội về điều chỉnh chủ trương đầu tư Dự án đầu tư xây dựng đường bộ cao tốc Biên Hòa - Vũng Tàu giai đoạn 1.
Nghị quyết điều chỉnh khoản 5 Điều 2 Nghị quyết số 59/2022/QH15 ngày 16/6/2022 của Quốc hội về chủ trương đầu tư Dự án đường bộ cao tốc Biên Hòa - Vũng Tàu giai đoạn 1 như sau: Sơ bộ tổng mức đầu tư Dự án là 21.551 tỷ đồng. Điều chỉnh sơ bộ tổng mức đầu tư, sơ bộ chi phí bồi thường, hỗ trợ, tái định cư của các dự án thành phần tại Phụ lục kèm theo Nghị quyết này.
Các nội dung khác thực hiện theo Nghị quyết số 59/2022/QH15.
Với 447/449 đại biểu tham gia biểu quyết tán thành (93,51% tổng số đại biểu Quốc hội), Quốc hội đã thông qua Nghị quyết của Quốc hội về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Hải Phòng.
Nghị quyết quy định thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Hải Phòng về quản lý đầu tư; quản lý tài chính, ngân sách nhà nước; quản lý quy hoạch, đô thị, tài nguyên và môi trường; quản lý khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo; thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức, chuyên gia, nhà khoa học, người có tài năng đặc biệt, nhà quản lý, người lao động có trình độ cao; thành lập và hoạt động của Khu thương mại tự do thành phố.
Về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố, UBND thành phố chấp thuận chủ trương đầu tư đối với dự án đầu tư xây dựng bến cảng, khu bến cảng có quy mô vốn đầu tư từ 2.300 tỷ đồng trở lên thuộc cảng biển Hải Phòng; chấp thuận điều chỉnh chủ trương đầu tư đối với dự án đầu tư xây dựng bến cảng, khu bến cảng thuộc cảng biển Hải Phòng đã được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương đầu tư trước ngày Nghị quyết này có hiệu lực thi hành.
Trình tự, thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư, điều chỉnh chủ trương đầu tư các dự án quy định tại khoản này được thực hiện theo trình tự, thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư, điều chỉnh chủ trương đầu tư đối với dự án thuộc thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư của UBND cấp tỉnh theo quy định của pháp luật về đầu tư.
UBND thành phố tổ chức quản lý, bảo trì các tuyến đường thủy nội địa quốc gia trên địa bàn thành phố; tổ chức quản lý hoạt động của cảng, bến thủy nội địa trên tuyến đường thủy nội địa quốc gia trên địa bàn thành phố.
Ngân sách thành phố được hưởng 100% nguồn thu phí, lệ phí từ tuyến đường thủy nội địa trên tuyến đường thủy nội địa quốc gia và từ quản lý hoạt động cảng, bến thủy nội địa trên địa bàn thành phố. Thành phố được sử dụng nguồn ngân sách nhà nước và các nguồn vốn hợp pháp khác để thực hiện việc đầu tư, bảo trì tuyến đường thủy nội địa, cảng, bến thủy nội địa trên địa bàn theo quy định của pháp luật.
Sáng 27/6, Quốc hội đã biểu quyết thông qua Nghị quyết của Quốc hội về phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước năm 2023 với 435/441 đại biểu tham gia biểu quyết tán thành (91,00% tổng số đại biểu Quốc hội).
Nghị quyết bổ sung dự toán thu ngân sách nhà nước năm 2023 số tăng thu ngân sách nhà nước năm 2023 chưa được bổ sung tại Nghị quyết số 1077/NQ-UBTVQH15 ngày 28/6/2024 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc bổ sung dự toán thu ngân sách nhà nước năm 2023; phân bổ, sử dụng nguồn tăng thu, tiết kiệm chi thường xuyên của ngân sách trung ương năm 2023 là 16.655 tỷ đồng, bao gồm: tăng thu ngân sách trung ương là 12.974 tỷ đồng; tăng thu ngân sách địa phương là 3.681 tỷ đồng.
Phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước năm 2023, theo đó tổng số thu cân đối ngân sách nhà nước là 3.023.547 tỷ đồng, bao gồm cả số thu chuyển nguồn từ năm 2022 chuyển sang năm 2023, thu kết dư ngân sách địa phương năm 2022, thu từ quỹ dự trữ tài chính theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước. Tổng số chi cân đối ngân sách nhà nước là 3.176.154 tỷ đồng, bao gồm cả số chi chuyển nguồn từ năm 2023 sang năm 2024. Bội chi ngân sách nhà nước là 291.564 tỷ đồng, bằng 2,83% GDP, không bao gồm kết dư ngân sách địa phương. Tổng mức vay của ngân sách nhà nước để bù đắp bội chi và trả nợ gốc là 482.625 tỷ đồng.
Quốc hội đã biểu quyết thông qua Nghị quyết của Quốc hội về việc thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân, các luật tố tụng và luật khác có liên quan, với 448/449 đại biểu tham gia biểu quyết tán thành (93,72% tổng số đại biểu Quốc hội).
Đáng chú ý, kể từ ngày Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân số 81/2025/QH15 được Quốc hội thông qua đến ngày có hiệu lực thi hành (ngày 1/7/2025), Chánh án Tòa án nhân dân tối cao có trách nhiệm rà soát, chuẩn bị về tổ chức bộ máy, nhân sự, cơ sở vật chất và các điều kiện cần thiết khác để bảo đảm hoạt động của Tòa án nhân dân các cấp theo quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân.

Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính, Luật Tư pháp người chưa thành niên, Luật Phá sản và Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án. Ảnh: Doãn Tấn/TTXVN
Căn cứ quy định tại các điều 4, 40, 47 và 60 của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 81/2025/QH15 và yêu cầu của thực tiễn xét xử tại mỗi Tòa án, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Phê chuẩn đề nghị thành lập các Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao, cục, vụ và tương đương, cơ quan báo chí của Tòa án nhân dân tối cao; thành lập Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân khu vực; quy định về phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ của Tòa án nhân dân khu vực; quy định về phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ của một số Tòa án nhân dân cấp tỉnh đối với yêu cầu hủy phán quyết trọng tài, đăng ký phán quyết trọng tài vụ việc; quy định về phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ của một số Tòa án nhân dân khu vực giải quyết vụ việc phá sản; vụ việc dân sự, kinh doanh, thương mại, vụ án hành chính về sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ; quyết định danh sách Ủy viên Hội đồng tuyển chọn, giám sát Thẩm phán quốc gia...
Kết thúc hoạt động của Tòa án nhân dân cấp cao, Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao, Tòa án nhân dân cấp huyện, Viện Kiểm sát nhân dân cấp huyện từ ngày 1/7/2025.
Nghị quyết này có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2025.