Kỹ thuật chăm cây vải thời kỳ nghỉ đông bằng phân bón Văn Điển
Đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng của cây vải thay đổi theo đặc điểm sinh học của cây như thời kỳ sau thu hoạch quả để cây hồi phục nhanh, bồi dục cành, lá cho quả năm sau thì bà con Bắc Giang đã bón lân nung chảy Văn Điển.
So với các loại vải nhỡ (vải lai) thì vải Thiều Bắc Giang quả to trung bình nhưng hạt seo (hạt rất nhỏ), cùi rất dày và chất lượng ngon, có vị thơm đặc trưng mà các nơi khác chưa thấy. Một phần do khí hậu thời tiết và thổ nhưỡng thuận lợi, phần do bà con Bắc Giang đã quen sử dụng phân bón Văn Điển cho cây vải.
Ưu điểm vượt trội của phân bón Văn Điển
Trên thị trường phân bón hiện nay, phân nung chảy Văn Điển là phân bón đa dinh dưỡng, trong đó hàm lượng một số chất dinh dưỡng chính như: P2O5 15-19%, MgO 15-18% ,SiO2 24-32%, CaO 28-34%, và nhiều chất vi lượng Fe, B, Mn, Zn, Co, Cu, Mo… với tồng chất dinh dưỡng dễ tiêu đạt trên 98%…
Sản phẩm này không tan trong nước nên không bị thất thoát do rửa trôi, bay hơi hay bị chất khác giữ bám, chỉ tan trong môi trường acid yếu do rễ cây tiết ra, được cây ăn từ từ trong suốt quá trình sinh trưởng phát triển; nếu bón nhiều hơn nhu cầu dinh dưỡng của cây cũng không gây hiện tượng phú dưỡng đất mà lượng phân bón dư cũng dược giữ lại cho vụ sau, cho thời gian sau.
Do vậy, phân nung chảy Văn Điển đặc biệt thích hợp cho thâm canh cây ăn quả, cây lưu niên. Kết hợp với đạm ure, kali Canada và một số dinh dưỡng vi lượng khác, Công ty Cổ phần Phân lân nung chảy Văn Điển đã sản xuất ra các sản phẩm phân đa yếu tố (ĐYT) NPK Văn Điển theo nhiều công thức khác nhau, phù hợp với từng loại cây trồng trên từng chân đất.
Đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng của cây vải thay đổi theo đặc điểm sinh học của cây như thời kỳ sau thu hoạch quả để cây hồi phục nhanh, bồi dục cành, lá cho quả năm sau thì bà con Bắc Giang đã bón lân nung chảy Văn Điển và các loại sản phẩm ĐYT NPK 5:10:3; 10:7:3 hoặc 10:5:5...vvv; đến thời kỳ sau đậu quả thì thường sử dụng sản phẩm ĐYT NPK 13:3:10; 12:5:10 hoặc 12:8:12, vvv; cac loại phân bón này cung cấp đầy đủ NPK, đồng thời bổ sung đầy đủ 4 chất dinh dưỡng trung lượng gồm canxi (vôi), magie (MgO), silic (SiO2) và lưu huỳnh (S) cùng các chất vi lượng kẽm (Zn), bo (B), đồng (Cu), Mangan (Mn) rất thiết yếu cho cây vải.
Chăm bón cây vải thời kỳ nghỉ đông
Cây vải thuộc nhóm cây lá xanh quanh, thường có hiện tượng ra quả cách năm tức là năm ra quả, năm không ra quả, năm ít quả, năm nhiều quả. Theo các chuyên gia nông học, muốn được mùa quả thì cây vải phải ra được đọt hoa và đậu được quả.
Khí hậu miền bắc thuộc dạng hình pha trộn giữa khí hậu Nhiệt đới và cận nhiệt đới nên mùa Đông thời tiết ấm, rét, khô, ẩm xen kẽ. Nếu mùa đông khô rét nhiều, cây cằn cỗi thuận cho phân hóa mầm hoa. Ngược lại, nếu mùa Đông ấm, ẩm hoặc cây xanh tốt, tỷ lệ C/N thấp sẽ hạn chế hoặc kìm hãm ra hoa. Thuộc nhóm cây ra “quả đầu cành”, hàng năm cây vải cho 2-3 đợt lộc, trong đó đợt lộc vào tháng 6-7 cho các cành quyết định việc ra hoa kết quả năm sau.
Như vậy chỉ các cành bánh tẻ ra từ lộc thu mới là cành mang quả vụ tới. Nếu cành thu khỏe và bánh tẻ thì vào mùa xuân tới, hoa sẽ nở trên đầu cành. Nếu mùa đông đã ra chồi lá (lộc đông) thì mùa xuân không ra hoa. Do vậy để mùa xuân tới cây ra được nhiều hoa thì trước hết phải chuẩn bị được nhiều cành mùa thu năm trước, cành đủ tuổi và sung sức. Điều đó phụ thuộc trước hết vào khâu chăm sóc từ sau khi thu quả đến hết giai đoạn nghỉ Đông.
Từ kết quả nghiên cứu của cac chuyên gia nông nghiệp, sau khi thu hoạch quả thì rễ là bộ phận bị mất lực nhiều nhất rồi đến lá, cành. Do vậy, đồng thời với việc bấm cành tỉa tán cây là việc chăm sóc phục hồi bộ rễ. Lân và các dinh dưỡng trung, vi lượng là nhu cầu lớn nhất trong giai đoạn này. Để năm sau ra được hoa quả bình thường, kinh nghiệm chăm sóc cây vải của bà con vùng vải Bắc Giang là phải tiến hành “bón bù” hay “bón đền” cho thời kỳ sau thu hoạch. Tuy nhiên việc chăm sóc còn tùy thuộc vào thời điểm thu hoạch và sức khỏe của cây mà tác động vào lứa lộc hè hoặc lộc thu.
Bón thúc cho lộc hè:
Đây là đợt bón quan trọng nhằm giúp cây vải phục hồi lại sức sau một mùa cho quả, đặc biệt là nhưng cây sai quả. Cần chủ động bón sớm ngay sau khi thu quả (vào cuối tháng 6, đầu tháng 7). Bón phân khi đất được tưới ẩm 65-70% độ ẩm đồng ruộng. Lượng bón cho một cây gồm có phân chuồng 30-50 kg; + 7-10kg phân Lân nung chảy Văn Điển + 3 - 5kg phân bón đa yếu tố NPK 5:10:3 hoặc 10:7:3 để kích thích ra lộc (lượng bón cụ thể tùy vào tuổi cây, năng suất thu hoạch vụ vừa qua và độ phì của đất),phân được bón sâu 5-10cm quanh hình chiếu phía ngoài tán cây. Đợt bón này kết hợp với tỉa cành la, cành vóng, cành bị sâu, bệnh hại làm cho tán cây thông thoáng hạn chế sâu, bệnh hại.
Bón thúc cho lộc thu
Lộc thu được hình thành trên nách lá của lộc hè, là cành quả của vụ vải năm sau, do vậy cần bón phân điều chỉnh sao cho lộc thu ra kết thúc trước 15/11 hàng năm. Bón phân thúc lộc thu vào tháng 9 sau khi lộc hè đã thành thục (thành lá bánh tẻ), bón 2-3kg phân ĐYT NPK 10:7:3 kết hợp đốn, tỉa bỏ cành tược (cành vượt) trong tán.
Lưu ý:
* Chỉ nên bón cho lộc thu đối với những cây dưới 15 năm tuổi, có biểu hiện thiếu phân, sinh trưởng kém (biểu hiện lá có màu xanh vàng).
*Tùy tình hình sinh trưởng của cây mà bón phân lượng nhiều ít;
* Nếu trời khô hạn, phải kết hợp tưới nước giúp cây nhanh hồi phục và sớm phát triển lứa lộc thu.
*Khi lộc thu ra đều, cần phun thuốc phòng trừ sâu bệnh, đảm bảo cho lứa lộc ra đều và nhiều, lộc non sinh trưởng khỏe, đủ sức làm cành nuôi quả năm tới.
*Trong những tháng mùa đông không được tưới nước, bón phân, tạo mọi điều kiện cho cây “cằn cỗi”, kìm hãm sự hình thành và phát tiển lứa lộc đông.
Lục ngạn- Bắc Giang chủ yếu trồng giống vải thiều. So với các giống vải nhỡ (vải lai) thì giống vải thiều mẫm cảm với không khí lạnh và khô hanh hơn. Rét đậm, rét hại lại là tác nhân số 1 giúp vải thiều ra hoa. Nếu mùa đông ít rét hoặc có vài trận mưa là đủ cho vải ra lứa lộc đông. Cần hạn chế và diệt lộc đông. Kinh nghiệm của bà con Băc Giang về các giải pháp hạn chế cây vải ra lộc đông (chủ yếu đối với những cây sinh trưởng mạnh lá xanh tốt, khi gặp mưa có độ ẩm đất cao vào tháng 11 trở đi) như sau:
+ Cuốc thành rãnh sâu 35-40 cm, rộng 20-30 cm quanh hình chiếu phía ngoài của tán cây nhằm làm đứt bớt bộ rễ hút của cây, hạn chế dinh dưỡng cung cấp cho cây, nhằm làm cây “bị chột” không ra được lộc đông.
+ Tiến hành khoanh vỏ trên thân cành. Dùng dao sắc hay cưa vanh khoanh từ 1-4 vòng quanh thân cành tùy màu sắc xanh tốt của bộ lá nhằm làm giảm quá trình luân chuyển giữa phân khoáng và nước “dòng nhựa nguyên” từ dưới lên và chất hữu cơ “dòng nhựa luyện” từ trên chuyển xuống, có tác dụng làm hạn chế quá trình phát lộc đông. (lưu ý cần để lại ít nhất một cành không khoanh vỏ để nối liền lá với thân và bộ rễ , cung cấp thức ăn một cách hạn chế cho cây).
Trong trường hợp bất khả kháng mà cây vải vẫn ra lộc đông thì cần diệt lộc đông sớm. Để diệt lộc đông sớm, những lộc đông ra sau 10/11, có thể dùng hóa chất diệt trừ. Có nhiều loại hóa chất diệt lộc non như nước muối ăn (NaCl), nước phân đạm, kali, thuốc diệt cỏ...
Theo kinh nghiệm của bà con nông dân Hiệp Hòa thì tốt nhất nên dùng Ethrell (C2H4) có trong thuốc dấm hoa quả. Chất Ethrell dùng với nồng độ vừa phải có tác dụng làm thui lộc non, không ảnh hưởng tới các lá bánh tẻ, lá đã sinh trưởng thành thục như một số hóa chất khác. Ngoài tác dụng làm thui lộc đông, Ethrell còn có tác dụng quan trọng nữa là làm ức chế pha sinh trưởng của cây (quá trình sinh trưởng thân lá) và kích thích pha phát triển (quá trình sinh trưởng sinh thực hay ra nụ, hoa, quả).
Sang xuân, tiết trời ấm và ẩm, cây vải bắt đầu nảy lôc Xuân. Chỉ tiến hành bón phân thúc cho vải khi thấy nhú mầm hoa ở nách lá đầu cành, lượng bón khoảng 3-5kg phân ĐYT NPK 13:3:10. Vùi lấp kín phân, sau đó tưới ẩm để kích thích ra nụ, ra hoa.
Chăm sóc cây vải bằng phân lân nung chảy và các sản phẩm phân đa yếu tố NPK chuyên dùng Văn Điển đã đồng thời cung cấp đầy đủ và cân đối các chất dinh dưỡng thiết yếu cho cây vải, đặc biệt chăm sóc giai đoạn từ sau thu hoạch đến hết kỳ nghỉ đông giúp cây sinh trưởng khỏe, chống chịu tốt với ngoại cảnh bất thuận,; cây vải cân đối sinh trưởng với phát triển, hạn chế hiện tượng ra quả cách năm, tạo ra những mùa vải bội thu với chất lượng cao đáp ứng thị trường trong nước và xuất khẩu.