Ký ức những ngày đầu tập kết
Nhân kỷ niệm 70 năm ngày đồng bào, cán bộ, chiến sĩ và học sinh miền Nam tập kết ra Bắc (1954-2024), xin được kể lại vài câu chuyện của gia đình, góp phần lưu giữ và bảo tồn ký ức về một sự kiện lịch sử của đất nước.
Từ tháng 9.1954 đến 7.1955 là thời kỳ chuyển quân tập kết theo quy định của Hiệp định Genève về Việt Nam. Trong khoảng 300 ngày đó, có một sự kiện nổi bật diễn ra trong phạm vi cả nước là cuộc di dân, chuyển quân tập kết diễn ra sôi động.
Đã có khoảng 150.000 người chuyển cư từ miền Nam ra miền Bắc, bao gồm cán bộ chiến sĩ lực lượng vũ trang, cán bộ chính quyền, Đảng các cấp và một số nhân sĩ mặt trận... từng chiến đấu, công tác ở miền Nam. Họ ra đi từ các chiến khu và vùng giải phóng.
Hiệp định Genève quy định thời hạn tổ chức tổng tuyển cử thống nhất nước Việt Nam vào tháng 7.1956 nên tất cả những người miền Nam tập kết ra Bắc đều tin rằng sau 2 năm họ sẽ trở về. Trước khi lên tàu, mọi người vẫy tay tạm biệt người thân, bạn bè, đồng đội bằng cách giơ 2 ngón tay, hàm ý 2 năm sẽ gặp lại. Không ngờ cuộc chuyển cư đó kéo dài đến 20 năm sau.
Ba má tôi tham gia kháng chiến ở miền Tây Nam bộ. Từ Chắc Băng - Cà Mau, cuối năm 1954 ba tôi đi chuyến tàu đầu tiên tập kết cùng khối văn nghệ. Lúc đó ba tôi phụ trách Đoàn Ca Kịch Cửu Long Giang ở miền Tây Nam bộ. Trong đoàn có các cô chú sau này là những văn nghệ sĩ nổi tiếng như Quốc Hương, Hoàng Việt, Phan Nhân, Phan Vũ, Xuân Mai, Hoàng Mãnh, Kim Nhụy, Phi Điểu, Hoàng Hiệp, Đắc Nhẫn... và rất nhiều nghệ sĩ sau này thành danh trên đất Bắc.
Má tôi ra đến Sầm Sơn vào tháng 2.1955 trên chuyến tàu tập kết cuối cùng cũng từ Chắc Băng. Khi ấy má tôi là nhân viên Sở Y tế Nam bộ, dưới quyền bác tôi là Giám đốc sở - bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng - sau này là Bộ trưởng Bộ Y tế nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Có thể nói gia đình tôi là một trong số ít các gia đình may mắn được đi tập kết cả hai vợ chồng. Đi theo má tôi trong chuyến tàu cuối cùng đó còn có anh Hai, chị Ba của tôi lúc đó mới 9 tuổi và 4 tuổi. Còn tôi thì được sinh ra ở Hà Nội và cùng gia đình trở về quê vào tháng 5.1975. Câu chuyện về chuyến tàu tập kết và những ngày đầu tiên ra Bắc sống với đồng bào Thanh Hóa, ba má tôi hay kể lại trong những năm tháng xa quê dài đằng đẵng. Mỗi khi nhắc lại kỷ niệm này, dường như ba má tôi cảm thấy ngày về quê gần hơn một chút...
Trong hồi ký ba tôi có vài đoạn viết về những ngày mới tập kết ở Thanh Hóa:
Cho đến một ngày, cuối năm 1954, giữa một rừng cờ đỏ vàng sao, gia đình và đồng bào tiễn đội ngũ chúng tôi lên đường tập kết… Lần đầu tiên có chuyến đi xa, nhưng không một ai thiết nhìn phong cảnh. Chúng tôi vừa để lại phía sau những gì thân thương nhất, vừa lo âu không hiểu rồi đây tương lai của mảnh đất quê hương yêu mến rồi sẽ ra sao, vừa băn khoăn cố gắng hình dung những nhiệm vụ nặng nề sắp đến, tự hỏi mình có gánh vác nổi hay không?
Tàu Xta-vơ-rô-pôn (Stavropol - NV) cập bến Sầm Sơn vào một buổi sáng mùa đông, gió lạnh chạy dài trên biển. Đồng bào đông đảo nồng nhiệt đón tiếp chúng tôi. Trống ếch rập rùng, nhưng lòng chúng tôi đau quặn vì thấy bà con ăn bữa cháo bữa rau nhưng vẫn dành cho những đứa con miền Nam cơm đầy thịt đủ.
Kế tiếp là những năm dài “ngày Bắc đêm Nam”, là những chuyến lưu diễn liên miên: Rừng núi Việt Bắc, đồng ruộng khu Ba, khu mỏ Quảng Ninh, giới tuyến Hiền Lương… Tới đâu chúng tôi cũng ráng đem lời ca tiếng hát góp phần cho than, lúa thêm nhiều, đem chút ít tình cảm ấm áp cho anh em đồng hương, ráng làm hết sức mình vì miền Nam ruột thịt.
Trong năm 1955 (trong thời hạn 300 ngày chuyển quân) ba tôi cùng đoàn văn công nhiều lần quay lại Liên khu 5 để biểu diễn phục vụ đồng bào trước khi giới tuyến đóng cửa. Những chuyến đi trên chính những con tàu đưa người tập kết ra Bắc nhưng lần này là từ Sầm Sơn, Thanh Hóa quay trở vào Nam.
Má tôi quê ở Cao Lãnh - một trong ba nơi xuất phát các chuyến tập kết. Tuy nhiên má tôi lại đi tập kết tại Cà Mau. Do lần đầu đi biển nên vừa bước lên tàu là bà bị say sóng suốt hành trình. Tháng 2.1955, tàu cập bến Sầm Sơn nhưng một tuần sau bà vẫn chưa hết bệnh. Hai anh chị tôi còn nhỏ nhưng không sao, trên tàu thì chơi với các cô chú, vào bờ thì được bà con chăm sóc “vì mẹ các cháu đang ốm”.
Má tôi còn nhớ hoài những chia sẻ ấm áp nghĩa tình của đồng bào Sầm Sơn trong những ngày lưu trú tại đây. Lúc ấy má tôi một mình với hai con nhỏ, ở nơi “lạ nước lạ cái” nhưng được bà con Sầm Sơn coi như người nhà, giúp đỡ từ việc nhỏ đến việc lớn. Từ việc đi chợ mua thức ăn - nhiều loại rau, thực phẩm má tôi không biết gọi là gì, “ngôn ngữ bất đồng” nên nói gì người bán, người mua cũng không hiểu nhau, vậy là người bán cứ bán, người mua cứ mua, không nói thách cũng không trả giá...
Về sau mỗi khi thấy “các bác miền Nam” đi chợ, người bán lại nhắc nhau là các bác ấy hay mua thức ăn gì rồi tự mang đến đưa cho. Đến việc lo người miền Nam không quen với cái lạnh miền Bắc nên đồng bào mang nhiều rơm đến những gian lán trại mới xây dựng tạm, kết thành các ổ rơm để có nơi nằm ấm áp... Nhiều sinh hoạt ở nông thôn miền Bắc, cán bộ miền Nam tập kết chưa quen cũng gây ra một số hiểu nhầm, nhưng đồng bào luôn bỏ qua, dần dần hai bên thông hiểu nhau hơn.
Cùng chuyến đi với má tôi có nhiều cô đang mang thai rồi sinh con trên đất Thanh Hóa. Tôi có vài người bạn là những đứa trẻ như vậy, cho đến nay họ vẫn nhận “đồng hương” với người Thanh Hóa.
Sau hơn 2 tháng ở Sầm Sơn, má tôi nhận được quyết định công tác nên ra Hà Nội. Từ đó cho đến ngày trở về miền Nam, hình như bà không có dịp quay lại Thanh Hóa nhưng ký ức về tình cảm của bà con ở đây thì má tôi không bao giờ quên, luôn kể lại cho con cháu nghe...
Tôi thuộc thế hệ được sinh ra và lớn lên ở miền Bắc. Từ 1975 tôi theo gia đình trở về TP.HCM, về quê hương ở miền Tây Nam bộ. Làm nghề nghiên cứu và giảng dạy lịch sử chuyên ngành khảo cổ học nên tôi có nhiều “duyên nợ” với Thanh Hóa - nơi ba má tôi lần đầu tiên đặt chân lên đất Bắc, bắt đầu thời kỳ “ngày Bắc đêm Nam” dài đến 21 năm. Nhờ công việc nên tôi được đến Thanh Hóa nhiều lần, làm việc với bảo tàng tỉnh, các di tích khảo cổ học như Núi Đọ, Đông Sơn và nhiều di tích lịch sử - văn hóa, một số nhà sưu tập tư nhân. Đặc biệt khu di tích Lam Kinh (huyện Thọ Xuân) và khu di tích thờ Chúa Nguyễn (Gia Miêu, huyện Hà Trung) là nơi mà mỗi lần trở lại tôi đều có thật nhiều cảm xúc...
Mỗi lần về quê ngoại Cao Lãnh, có hai nơi tôi thường ghé lại. Đó là khu mộ cụ Nguyễn Sinh Sắc - nơi có sự góp sức của gia đình bên ngoại tôi trong việc gìn giữ và chăm sóc suốt những năm chiến tranh. Nơi thứ hai là Di tích quốc gia địa điểm tập kết ra Bắc tại Cao Lãnh.
Di tích quốc gia địa điểm tập kết ra Bắc được xây dựng bên bờ sông Tiền, ngay địa điểm diễn ra sự kiện tập kết năm 1954. Tượng đài được chọn từ cuộc thi sáng tác với chủ đề “Con ra thưa với cụ Hồ, Việt Nam chung một ngọn cờ mà thôi”. Đó là hình tượng người mẹ lưu luyến tiễn con đi, đứng trên đài sen cách điệu; hai bên là hai bức phù điêu thể hiện hình dáng con tàu cách điệu ghi lại sự kiện tập kết tại Cao Lãnh với những hoạt động thể hiện tình đoàn kết gắn bó quân dân.
Đây là hai khu vực được người dân Cao Lãnh và nhiều nơi khác thường đến thăm viếng, học sinh đến học về truyền thống lịch sử và nghĩa tình Bắc - Nam.
Trong thời kỳ chiến tranh, đất nước tạm thời chia cắt, suốt những năm sống ở Hà Nội, ở miền Bắc, gia đình tôi thấm thía sự đùm bọc, chia sẻ của đồng bào miền Bắc.
Nguồn Người Đô Thị: https://nguoidothi.net.vn/ky-uc-nhung-ngay-dau-tap-ket-44599.html